Thơ Nôm Nguyễn Trãi: THUẬT HỨNG

Trân trọng giới thiệu tiếp bài viết của Nhà thơ Vũ Bình Lục về Thơ Nôm của Nguyễn Trãi.

b1bl1ac-1699067803.jpg

 Tác giả bên hồ Côn Sơn, Chí Linh, tỉnh Hải Dương

 

THUẬT HỨNG

Ngại ở nhân gian lưới trần,

Thì nằm thôn dã miễn yên thân.

Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử,

Viên hạc đà quen bạn dật dân.

Hái cúc ương lan, hương bén áo,

Tìm mai đạp nguyệt, tuyết xâm khăn.

Đàn cầm suối trong tai dọi,

Còn một non xanh là cố nhân.

Bài thơ này Nguyễn Trãi làm khi đã về ở ẩn tại lều tranh quê nhà ở Côn Sơn, Chí Linh, Hải Dương. Tiên sinh giờ đây như một ẩn sĩ, như một thường dân, lại như một kẻ sĩ, một thi sĩ lánh đời ở chốn nước mây, ngoài vòng danh lợi phù phiếm, sau khi đã chịu nhiều bầm dập đớn đau về thể xác và nhất là tinh thần, như thể một cánh chim đã “phải cung nên cũng sợ làn cây cong”...

Mở đầu bài thơ đã thấy tác gia tỏ rõ quan điểm nhân sinh:

Ngại ở nhân gian lưới trần,

Thì nằm thôn dã miễn yên thân.

“Ngại”, là ngại ngần, sợ hãi lắm cái “lưới trần”, cái lưới đời vô hình vô ảnh ở chốn trần gian này. Một người anh hùng dân tộc, đã từng vung bút đuổi hàng chục vạn quân giặc xâm lược nhà Minh, “Văn chương có sức mạnh hơn mười vạn tinh binh”, “Viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”, đã từng lớn tiếng chửi mắng thiên tử nhà Minh là “Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng” (Bình Ngô đại cáo), mà giờ đây thấy ngại, thấy sợ cái lưới trần vô hình vô ảnh đầy bất trắc oan nghiệt kia, thì cái sự chua chát đắng cay đã đến độ sâu thẳm lắm rồi. Nên phải lánh về nằm nơi “thôn dã miễn yên thân”, thì cũng là một lẽ rất thường tình, là tâm sự có thể cảm thông.

Và có lẽ cũng chẳng còn cách hành xử nào hay hơn. “Xuất” không xong thì đành phải “xử” vậy thôi. Thì lại làm bạn làm bầu với “trúc” với “mai”, với “vượn” kêu “hạc” lẩn:

Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử,

Viên hạc đà quen bạn dật dân.

“Trúc” và “mai”, chắc là chẳng phụ “lòng người quân tử” như ta; hoặc là ta chẳng bao giờ phụ cái tình tri âm tri kỷ của “trúc” và “mai”, cũng là những cốt cách quân tử rất đáng trọng ở đời.

Từ lều tranh nơi rừng suối ra đi giúp đời giúp nước, rồi lại đeo đẳng ít nhiều ở chốn quyền môn, như thế cũng là đã phụ với rừng suối, với trúc mai lắm rồi. Bây giờ thì “Ngại ở nhân gian lưới trần”, ta về đây với lời hứa năm xưa, với những bạn “dật dân” nơi thôn dã, khỏi phụ lòng trúc mai quân tử. Còn như “viên” (vượn) và “chim hạc”, vốn chẳng xa lạ gì với ta cả đâu, đều là những bạn quen, thân thiết với kẻ “dật dân” là ta, cũng đều là bạn tri âm tri kỷ với ta cả! Hình như Ức Trai muốn xua đi những ký ức buồn, xua đi tất cả những lời thị phi bắng nhắng “đắng lỗ tai” để tâm hồn được yên tĩnh, thanh sạch, như một Tiên ông thoát tục…

Hái cúc ương lan, hương bén áo,

Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn.

Hái hoa cúc, “ương” (trồng) cây lan mà cảm thấy như hương lan hương cúc đang còn bén, còn bám vào, còn đậu vào áo, thì cả không gian, cả trời đất như cũng sực nức mùi hương hoa rồi. Con người như thể đang chìm đắm trong hương hoa dìu dịu của đất trời, còn có thú vị nào hơn?

Lại khi tìm mai để thưởng ngoạn, chân bước như vướng phải ánh trăng, như dẫm lên màu trăng tươi trăng nõn mà đi… Còn như sương giá (tuyết) thì bám vào khăn như thể những bông hoa trắng tinh, thấm vào khăn, “xâm khăn”, chủ động và rất có tình…Quả là những câu thơ vừa ảo vừa thực, sinh động và đẹp long lanh, không ít trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, nhưng lại thật hiếm thấy trong thơ Nôm đương thời và cả mấy trăm năm sau đó...

Hai câu kết:

Đàn cầm suối trong tai dọi,

Còn một non xanh là cố nhân.

Thì tác giả đã “vẽ mắt” cho bức hoạ bằng thơ, bằng một thứ âm thanh trong vắt, ấy là tiếng suối róc rách, nghe êm như tiếng “đàn cầm” vỗ mãi vào trong tai, vào bên tai, không ngừng không nghỉ.

Cụ Đào Duy Anh phiên chữ “dọi” là “dội”. Cũng có khi tiếng đàn cầm kia dội bên tai, như ở một số bài thơ khác của Tiên sinh đã từng viết, nhưng đây là tiếng đàn cầm dọi vào trong tai, hoặc dội vào trong tai, nghĩa là tiếng đàn ấy có thể đã có sẵn rồi, luôn để sẵn rồi, có thể nghe thấy nó bất cứ lúc nào khi tâm đã tĩnh, miên man không dứt. Với Tiên sinh lúc này, chỉ có, chỉ “còn một non xanh làm cố nhân” , tức người thân quen cũ mà thôi!

Thuật hứng-Bài 15- của Nguyễn Trãi, chất liệu thơ vẫn là những hình ảnh quen thuộc, như hương lan hương cúc, cây trúc, hoa mai, rồi vượn rồi hạc, rồi suối và núi non…Khác chăng là khác ở cấu trúc nội hàm, ở ngữ nghĩa biểu thị, làm giàu có thêm phong vị uyển chuyển của ngôn từ và âm giai của tư tưởng! Mỗi chữ trong bài thơ đều có hồn, như thể chúng đang đi lại, đang tỏa hương, đang nói cười và sắp sửa tuyên ngôn một điều gì đó huyền bí mông lung!...

Hà Nội 8-2011

V.B.L