Tư tưởng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về văn hóa, văn nghệ

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam là nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh; người chiến sĩ cách mạng kiên trung; vị Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà quân sự xuất sắc, nhà văn hóa lỗi lạc, một nhân cách Việt Nam cao đẹp, sáng ngời.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng hết lòng vì nước vì dân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những tư tưởng chỉ đạo sâu sắc về văn hóa, văn nghệ, khẳng định: “văn hóa, văn nghệ kháng chiến đã có những cống hiến to lớn trong suốt ba mươi năm chiến tranh” [2, tr.302].

1-vonguyengiap-buzk-1755395756.jpg
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, năm 2002. Ảnh: Tư liệu

1. Tư tưởng của Đại tướng về vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ

Trước năm 1945, trong thời kỳ gây dựng phong trào cách mạng khi Đảng ta chưa giành được chính quyền, quan điểm nhất quán, xuyên suốt là văn hóa, văn nghệ phải trở thành công cụ sắc bén của công tác tư tưởng nhằm tuyên truyền, giác ngộ cách mạng đối với quần chúng nhân dân. Là công cụ vận động quần chúng tham gia các hội cứu quốc, các phong trào cách mạng. Khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ gây dựng phong trào cách mạng ở các huyện Hòa An, Nguyên Bình ở chiến khu Cao - Bắc - Lạng, Đại tướng đã chủ động mở các lớp huấn luyện cán bộ là hội viên các hội cứu quốc hiểu về tôn chỉ, mục đích, chủ trương, chính sách của Mặt trận Việt Minh.

Từ thực tiễn gây dựng và tổ chức phong trào cách mạng ở vùng đồng bào dân tộc Nùng, Mông, Dao, Đại tướng nhận thấy các hội viên ai cũng có tinh thần yêu nước, căm thù thực dân, phong kiến, nhiệt huyết cách mạng nhưng do trình độ văn hóa còn thấp, thậm chí nhiều hội viên chưa đọc viết, nói tiếng phổ thông thành thạo. Phải làm thế nào để việc tuyên truyền đạt hiệu qủa, Đại tướng đặt cho mình phải tự học tiếng các dân tộc Nùng, Mông, Dao, đồng thời với tư cách một nghệ sĩ, Đại tướng đã nghĩ đến việc chuyển những bài thơ vận động cách mạng của Bác Hồ và tài liệu bồi dưỡng chính trị của lớp huấn luyện sang thể thơ 5 chữ, gọi là Ngũ tự kinh giúp học viên dễ thuộc, dễ nhớ. Sau đó, còn dịch Ngũ tự kinh ra tiếng Nùng, tiếng Mông và tiếng Dao để hội viên dễ hiểu, dễ thuộc hơn. Nhờ tự học tiếng dân tộc đã giúp Đại tướng giao tiếp được với học viên qua tiếng của dân tộc họ, từ đó nắm được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ để nâng cao cách tuyên truyền vận động quần chúng.

Qua tập huấn chính trị, Đại tướng đã phát hiện một thanh niên người Dao là Bàn Tài Tuyên nhiệt tình cách mạng, có năng khiếu làm thơ bằng tiếng dân tộc mình. Đại tướng đã hướng dẫn Bàn Tài Tuyên làm thơ theo thể thơ truyền thống của dân tộc mình và chuyển thành các bài hát để tuyên truyền, vận động quần chúng giác ngộ cách mạng và tham gia hội cứu quốc. Thanh niên Bàn Tài Tuyên sau này trở thành nhà thơ cách mạng, đó là nhà thơ Bàn Tài Đoàn, dân tộc Dao [3]. Đại tướng ghi nhận đóng góp của văn nghệ sĩ vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng: “Với nền văn hóa mới, văn nghệ sĩ trở thành chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật trực tiếp góp phần vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do” [2,tr.302]. 

2. Tư tưởng của Đại tướng Võ nguyên Giáp về đối tượng phục vụ của văn nghệ sĩ

Trong bài nói chuyện của Đại tướng tại Hội nghị đầu năm của văn nghệ sĩ toàn miền Bắc, ngày 22-01-1959, Đại tướng có bài nói chuyện sâu sắc giúp văn nghệ sĩ trong ngoài quân đội nhận rõ đối tượng mà mình phục vụ.

Sau khi giới thiệu khái quát bản chất của quân đội nhân dân, quân đội cách mạng, Đại tướng chia sẻ: “Chính con người quen thuộc đó, người lính của quân đội nhân dân, người chiến sĩ anh dũng vô song, cũng chính là người lao động bình thường như những anh em công nhân khác, đó là đối tượng phục vụ của văn nghệ. Con người ấy có một mục tiêu phấn đấu cao cả - mục tiêu phấn đấu của tất cả chúng ta: Hòa bình, Độc lập, Dân chủ, Thống nhất và Chủ nghĩa xã hội. Con người ấy tự rèn luyện để ngày càng trở nên con người mới. Nó sống trong xã hội Việt Nam, với những vui buồn của mọi người, với mọi diễn biến đấu tranh trong tâm tư nhưng luôn luôn tích cực tiến lên, đi theo tiếng gọi của nhiệm vụ, tiếng gọi của dân tộc, của giai cáp, tiếng gọi của Đảng” [1, tr.482].

Đại tướng căn dặn: “Các anh chị em văn nghệ sĩ trong khi sáng tác cần luôn luôn nhớ rằng, lực lượng nhân dân lao động là lực lượng sáng tạo ra lịch sử. Lực lượng làm thay đổi xã hội ta. Đó là đối tượng phục vụ chủ yếu của văn nghệ. Ca ngợi xã hội mới đang tiến lên và con người mới đang xuất hiện. Con người mới đó là con người lao động bình thường được giáo dục theo chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, có đạo đức xã hội chủ nghĩa, càng ngày càng thoát khỏi những ràng buộc của chủ nghĩa cá nhân. Con người mới mai đây sẽ là con người được phát triển toàn diện” [1, tr.485].

3. Tư tưởng của Đại tướng Võ nguyên Giáp về xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ

Để văn nghệ sĩ thực sự trở thành chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, Đại tướng căn dặn: “Các đồng chí văn nghệ sĩ chúng ta muốn làm được nhiệm vụ lớn lao phục vụ cách mạng, phục vụ công nông binh, tôi thấy vấn đề gốc vẫn là không ngừng quán triệt nhiệm vụ và đường lối cách mạng của Đảng” [1, tr.483]. Điều Đại tướng rất quan tâm là văn nghệ sĩ cách mạng nói chung và văn nghệ sĩ trong quân đội nói riêng cần đặc biệt chú ý là bồi dưỡng trình độ chính trị, tư tưởng chính trị để có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, dân tộc, vượt mọi khó khăn, gian khổ, lao dộng sáng tạo để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đại tướng yêu cầu: “Không ngừng tăng cường học tập chính trị để nâng cao trình độ tư tưởng, củng cố lập trường giai cấp. Tư tưởng nói đây là lập trường của giai cấp công nhân. Vì vậy phải không ngừng và không nhân nhượng đấu tranh chống lại tư tưởng tư sản, chống lại những quan điểm tư sản trong văn học, nghệ thuật, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân” [1, tr.483].

Đọc hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng cho mỗi chúng ta một bài học quý giá là những quyết định quan trọng của Đại tướng đều xuất phát từ thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Từ kinh nghiệm chính cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng căn dặn văn nghệ sĩ cần: “Tự rèn luyện trong học tập bằng cách đi vào thực tiễn của xã hội, gần gũi quần chúng công nông binh, tự rèn luyện để sáng tác, để làm tròn nhiệm vụ của người văn nghệ sĩ cách mạng” [1, tr.484].

Là một nhà hoạt động cách mạng lăn lộn với cuộc sống để gây dựng phong trào, Đại tướng thấu hiểu sức mạnh của quần chúng khi được giác ngộ - họ là lực lượng làm nên lịch sử, văn nghệ sĩ phải sâu sát quần chúng, thấu hiểu ước muốn của họ, những phẩm chất tốt đẹp của họ thì mới có thể sáng tạo nên những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị. Với kinh nghiệm và thực tiễn của thế hệ đi trước, Đại tướng chân thành chia sẻ với văn nghệ sĩ: “Muốn phục vụ con người mới của xã hội mới, bản thân người văn nghệ sĩ cũng phải tự rèn luyện mình trở nên con người mới. Người văn nghệ sĩ cũng phải coi mình là một người lao động bình thường hòa mình với quần chúng nhân dân mà phục vụ... Văn nghệ sĩ thì làm văn nghệ sĩ là chủ yếu nhưng đồng thời, trong một chừng mực nào đó, còn phải là một người nông dân, một người công nhân, hay là một người quân nhân nữa, với cái nghĩa là đi sâu vào đời sống của công nông binh, tham gia vào hoạt động thực tiễn của công nông binh” [1, tr.485].

4. Tư tưởng của Đại tướng Võ nguyên Giáp về bảo vệ di sản văn hóa dân tộc

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà quân sự không chuyên sâu về văn hóa nhưng đại tướng là một người nêu một gương sáng về tinh thần tự học, tự nghiên cứu. Đại tướng đọc rất nhiều sách về lịch sử, văn hóa và quân sự nên có kiến thức rất rộng trên các lĩnh vực. Qua hồi ký của Đại tướng và những hồi ký liên quan đến Đại tướng đã cho thấy Đại tướng rất quan tâm đến việc giữ gìn, bảo vệ di sản văn hóa dân tộc.

Nhân kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng có chuyến về thăm chiến trường xưa. Sau khi thăm viếng nghĩa trang nơi tưởng niệm trên 6000 liệt sĩ hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng lên thăm di tích Đồi A1, chiếc chìa khóa sống chấn giữ phía đông bảo vệ trung tâm chỉ huy của Pháp ở Mường Thanh, kề liền nghĩa trang. Đại tướng lên đồi A1 nhìn thấy một chiếc xe tăng của Thực dân Pháp bị tiêu diệt còn nằm trên đồi. Đại tướng trăn trở: “Ông nhìn chiếc xe tăng, thời gian đã hủy hoại nó quá nhiều. Mà sao không ai nghĩ đến chuyện làm cho nó một cái bệ, một mái che và phủ sơn cho nó một lớp sơn bảo vệ. Đây là vật không thể làm lại. Nếu thiếu nó thì A1 còn gì?. Mà sao ai đã nghĩ đến việc làm một con đường nhựa để đưa ô tô lên đỉnh đồi A1...? Mỗi tấc đất ở đây đều nhuộm xương máu của đồng chí ta...” [4, tr.555].

Trăn trở của Đại tướng khiến ta suy ngẫm về vấn đề lý luận của bảo vệ di sản văn hóa. Di sản văn hóa là tài sản vô giá của dân tộc, vật chứng về lịch sử phát triển của một vùng đất, của con người ở vùng đất đó. Cho nên bảo vệ di sản văn hóa là giữ gìn cho được tính nguyên gốc hay tính nguyên trạng, tính chân xác lịch sử của di sản, mục tiêu là kéo dài tuổi thọ của di sản, hạn chế tối đa sự can thiệp của con người làm cho di sản bị mai một và biến dạng.

Đại tướng cho rằng cần phải giữ cho được tính nguyên vẹn của những tác phẩm nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Theo lời kể của ông Trần Sanh nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh (Đà Nẵng): Năm 1993, Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh được lãnh đạo tin tưởng giao dựng một tiết mục để biểu diễn phục vụ Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông Sanh cùng các nghệ sĩ trong nhà hát đã lựa chọn hai tiết mục trích đoạn đặc sắc nhất: Đổng Kim Lân biệt mẹ và Đổng Kim Lân qua đèo. Sau 40 phút biểu diễn của các nghệ sĩ, Đại tướng rất xúc động, cùng phu nhân bước tới sàn diễn bắt tay từng diễn viên, nhạc công và tặng hoa chúc mừng. Đại tướng và phu nhân còn dành một buổi trò chuyện ngắn với các nghệ sĩ. Đại tướng là một người rất am hiểu văn hóa, văn nghệ, ông Sanh và các nghệ sĩ đã tranh thủ xin lời khuyên của Đại tướng về định hướng nghệ thuật trong chặng tới của loại hình sân khấu cổ truyền của dân tộc.

Ông Sanh nhớ lại: Sau phút trầm ngâm, Đại tướng ân cần lên tiếng, đầy thấu hiểu và từ tốn: "Mình nghĩ nếu làm được cái gì khác mà hay hơn cho tuồng thì nên làm, còn cái gì đã hay rồi, đã hoàn thiện, trác tuyệt rồi thì phải bằng mọi cách giữ nguyên vẹn" [8].

Đại tướng nói thêm: "Trên thế giới không ai nghĩ đến chuyện cải tiến nhạc Chopin làm chi vì nó đã hay rồi. Tuồng ta cũng vậy, cái gì hay thì phải cố giữ nguyên vẹn lại cho con cháu. Muốn giữ được thì phải có quyết tâm, hết sức quyết tâm mới giữ được" [8].

Đại tướng Võ Nguyên Giáp lưu tâm đến văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số miền núi, động viên các văn nghệ sĩ cùng chung sức bảo tồn, phát huy, nhiệm vụ cấp thiết là sưu tầm giữ lại vốn văn hoá dân gian. Nhà văn Hoàng Triều Ân ở tỉnh Cao Bằng kể lại: “Năm 1989, khi Đại hội Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam lần thứ II kết thúc, Đại tướng đến chào đại hội và hỏi tôi bằng tiếng Tày: “Mì gần miền bấu?”,  Tôi vội nghĩ ngay đến Bàn Tài Đoàn và trả lời: “Thưa đồng chí, anh Bàn Tài Đoàn mệt không đi dự được ạ”. Nghe tôi nói vậy, Đại tướng dặn: “Đồng chí về Cao Bằng nhớ bảo Bàn Tài Đoàn phải sưu tầm ngay những điệu hát Tồ dung, Páo dung, không thì mất đi không bao giờ lấy lại được đâu”. Nghe theo lời Đại tướng, năm 1992, nhà thơ Bàn Tài Đoàn đã có công trình sưu tầm về Tồ dung, Páo dung của dân tộc Dao” [9]

Theo đạo diễn Đào Quang, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu, bảo tồn phát huy văn hóa dân tộc các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, rất tâm huyết với ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Đối với mỗi một dân tộc, mất đi giá trị truyền thống văn hóa là một điều đáng tiếc. Các giá trị này cần được bảo tồn, phát huy, truyền tải để thấy được màu sắc dân tộc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thể hiện sự quan tâm đến văn hóa dân tộc trong rất nhiều bài viết. Đại tướng thường đến xem các vở diễn thuộc nhiều loại hình nghệ thuật dân tộc. Đây là cách Đại tướng động viên các cán bộ làm công tác văn hóa tích cực bảo tồn, giữ gìn, phát huy vẻ đẹp của văn hóa dân tộc [8]

Thiếu tướng Hoàng Kiền, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Tư lện Binh chủng Công binh kể: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi là tấm gương sáng ngời về thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh”, chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người phát hiện hang Cốc Bó bị quân lính Trung Quốc dùng bộc phá đánh sập nóc hang trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: Hang Cốc Bó là di tích lịch sử hàng đầu của nước ta. Không có hang này thì không có Cách mạng Tháng Tám, không có Quốc khánh ngày 2.9, không có nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Cần phải khôi phục lại nguyên trạng hang này. Sau đó, Đại tướng giao cho Binh chủng Công binh thực hiện. Đại tướng bảo anh Võ Hồng Nam thảo thư tay rồi ông ký đề nghị Thủ tướng hỗ trợ kinh phí. Anh Nam đi gặp các cơ quan chức năng, rồi gặp Thủ tướng lúc đó là ông Phan Văn Khải và được giải quyết. Năm 2005, chính Đại tướng yêu cầu Bộ Tư lệnh Công binh khôi phục lại nguyên trạng lại hang này [6].

Những suy nghĩ, căn dặn của Đại tướng đã thể hiện rõ tư tưởng của Đại tướng về giữ gìn, bảo vệ di sản văn hóa dân tộc để truyền lại cho thế hệ hôm nay và mai sau về những chứng tích lịch sử hào hùng, vô giá của dân tộc cần được phát huy trong cuộc sống hôm nay.

Kết luận

Có thể khẳng định Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà lãnh đạo văn võ song toàn. Đại tướng không chỉ là một nhà quân sự tài năng xuất sắc, nhà lãnh đạo uy tín của Đảng, Nhà nước, Nhân dân, Đại tướng còn là một nhà văn hóa lỗi lạc, luôn quan tâm tới hoạt động văn hóa, văn nghệ; đã có những quan điểm, tư tưởng sâu sắc trong chỉ đạo, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ thực sự trở thành chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, văn nghệ.

Tài liệu tham khảo:

- Sách, bài viết:

1. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh (1976), Về văn hóa, văn nghệ, Nxb Văn hóa, tr.

2. Võ nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội Nhân dân.

3. Võ Nguyên Giáp (1964), Từ nhân dân mà ra, Hồi ký ĐẠi tướng Võ Nguyên Giáp, Hữu Mai thể hiện), Nxb Quân đội Nhân dân.

4. Hữu Mai (2024), Không phải huyền thoại, Nxb Trẻ.

5. Trần Trọng Trung (2021), Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong những năm đế quốc Mỹ leo thang chiến anh (1965 – 1969),  Nxb Chính trị Quốc gia- Sự thật.

- Tài liệu trên internet.

6. https://danviet.vn. Truy cập ngày 10-10- 2024.

7. Nguyên soái và văn nghệ, http://vanhoanghean.com.vn. Truy cập ngày 10-10- 2024.

8. Tôn vinh đóng góp của Đại tướng Võ Văn Giáp với văn hóa dân tộc, https://www.vietnamplus.vn. Truy cập ngày 10-10- 2024.

9. Tình cảm văn nghệ sĩ Cao Bằng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp,https://baocaobang.vn. Truy cập ngày 10-10- 2024.