Hệ thống chính trị ở cơ sở vùng DTTS và miền núi Nghệ An

Kiên quyết, kiên trì, chủ động đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, giữ yên bản làng

Có thể khẳng định, việc phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng như bộ đội biên phòng, công an địa phương, chính quyền cơ sở và nhân dân là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống hoạt động truyền đạo trái pháp luật.
img-6828-19-21-21-356-e1697074153118-1755444733.jpg
Ảnh minh họa Internet

(Kỳ 2): Từ Bản làng đồng bào Mông, chặn bàn tay truyền đạo trái phép bằng sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở

Lợi dụng sự thiếu thông tin, trình độ dân trí còn hạn chế và đặc biệt là nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của đồng bào Mông tại các xã vùng cao tỉnh Nghệ An, các đối tượng truyền đạo Tin Lành trái pháp luật đã từng bước len lỏi vào đời sống cộng đồng. Dưới vỏ bọc "giúp đỡ tinh thần", "cứu rỗi linh hồn", họ gieo vào lòng người dân những luận điệu trái với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Từ những buổi nhóm họp lén lút, tán phát tài liệu không rõ nguồn gốc, dần hình thành một số điểm nhóm bất hợp pháp. Nguy hiểm hơn, một bộ phận người dân bắt đầu có biểu hiện tách rời khỏi sinh hoạt cộng đồng, xa rời phong tục truyền thống, làm suy giảm niềm tin vào cấp ủy, chính quyền cơ sở. Bài viết vạch rõ những âm mưu, toan tính của các đối tượng truyền đạo trái pháp luật và những biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả của hệ thống chính trị ở cơ sở. 

Những bàn tay lạ và toan tính truyền đạo trái phép len lỏi vào đời sống đồng bào người Mông - dấu hiệu đáng báo động từ thực tiễn cơ sở

Đạo Tin Lành xuất hiện tại Nghệ An từ những năm cuối thập niên 1920, cụ thể vào khoảng năm 1928. Đến năm 1933, một chi hội Tin Lành được thành lập, và ba năm sau, năm 1936, ngôi nhà thờ Cầu Nại được xây dựng tại thành phố Vinh, trở thành biểu tượng của hoạt động tôn giáo chính danh trong giai đoạn này. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chiến tranh và bối cảnh lịch sử, đến năm 1952, nhà thờ rơi vào tình trạng hoang phế, chức sắc tản mác, tín đồ ly tán, chỉ còn một số ít người tiếp tục sinh hoạt tôn giáo tại gia, không tổ chức, không hệ thống.

Tình hình chỉ bắt đầu có những chuyển biến từ đầu những năm 1990, khi hoạt động truyền đạo Tin Lành bắt đầu nhen nhóm trở lại trên địa bàn tỉnh. Trong khoảng từ năm 1990 đến năm 1993, Tổng Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) nhiều lần gửi kiến nghị đến chính quyền tỉnh Nghệ An nhằm xin phục hồi tổ chức tôn giáo và xây dựng lại nhà thờ tại thành phố Vinh. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan - đặc biệt là việc chưa đảm bảo đầy đủ điều kiện theo quy định pháp luật - các đề xuất trên chưa thể được chấp thuận.

Đáng chú ý, năm 1994 đánh dấu một bước ngoặt khi một bộ phận người Mông di cư sang Lào, tiếp cận với đạo Tin Lành, sau đó trở về địa phương, cụ thể là xã Huồi Tụ, huyện Kỳ Sơn - tiến hành truyền đạo trái phép. Có thời điểm, số lượng người theo đạo lên tới 48 hộ với 331 nhân khẩu. Tuy nhiên, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể trong công tác tuyên truyền, vận động, đấu tranh với các hoạt động truyền đạo trái phép, con số này nhanh chóng giảm xuống, chỉ còn lại 3 hộ với 21 nhân khẩu (1).

Từ thực tế này, có thể thấy rõ một đặc điểm nổi bật của hoạt động truyền đạo Tin Lành trái phép tại Nghệ An đó là, sự thâm nhập có hệ thống, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bào DTTS, đặc biệt là người Mông, thông qua một số người dân tộc Mông khi làm ăn xa ở các tỉnh hoặc sang nước Lào thăm thân... bị móc nối, lôi kéo tham gia sinh hoạt và tham gia đạo Tin lành; lợi dụng đồng bào DTTS trình độ dân trí còn thấp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, ốm đau bệnh tật, bế tắc trong cuộc sống... để dụ dỗ lôi kéo tham gia; sau đó các đối tượng gặp gỡ trực tiếp tại nhà hoặc liên hệ qua điện thoại, mạng xã hội Intenet để hướng dẫn hoạt động đạo; lợi dụng các hoạt động từ thiện, tặng quà, tiền để phát tán tài liệu, sách kinh thánh, truyền đạo trái phép vào các địa bàn người DTTS. Đạo Tin lành ở các huyện miền núi biên giới tỉnh Nghệ An chủ yếu là người theo hệ phái Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và một số ít theo hệ phái Truyền giảng Phúc âm, tập trung tại các xã vùng sâu, vùng xa như xã Na Ngoi (huyện Kỳ Sơn), xã Tam Hợp (huyện Tương Dương), xã Tri Lễ (huyện Quế Phong), trở thành điểm nóng tiềm ẩn hoạt động truyền đạo trái phép. Đây cũng là địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, dân trí chưa cao, dễ bị ảnh hưởng bởi những luận điệu tuyên truyền có tính chất mê tín, lôi kéo.

Một thủ đoạn đáng lo ngại của các đối tượng truyền đạo trái phép là việc tổ chức các nhóm nhỏ, hoạt động phân tán, nhằm né tránh sự phát hiện và xử lý của chính quyền. Họ sử dụng các hình thức mềm dẻo, từ rủ rê, chia sẻ kinh nghiệm “thay đổi cuộc sống” cho đến các hoạt động nhân đạo trá hình. Họ thường hướng đến những người dân nhẹ dạ, cả tin, thậm chí đang gặp hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, để từng bước dẫn dụ vào đạo.

Không thể không nhắc đến vai trò của một số mục sư, tu sĩ Tin Lành từ các tỉnh phía Bắc, đã trực tiếp xâm nhập vào địa bàn Nghệ An. Họ không chỉ đến vùng sâu, vùng xa để làm lễ, truyền đạo mà còn cam kết không nhận bất kỳ khoản “bồi dưỡng” nào từ tín đồ mới, đồng thời tự chi trả mọi chi phí đi lại, ăn ở, tổ chức sinh hoạt. Điều này đặt ra những nghi vấn lớn: họ lấy kinh phí từ đâu để duy trì các hoạt động “tự nguyện” ấy? Có hay không sự hậu thuẫn tài chính từ các tổ chức tôn giáo nước ngoài hoặc các thế lực lợi dụng tôn giáo nhằm phục vụ mưu đồ chính trị?...

Thời gian qua, hoạt động đạo Tin Lành trái pháp luật tại một số bản người Mông như: bản Mường Lống (xã Tri Lễ), bản Phà Lõm (xã Tam Hợp) tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp về an ninh trật tự. Thời gian đầu, số người theo đạo Tin Lành không tụ tập sinh hoạt tôn giáo tại nhà, chủ yếu là trên khu vực lán, rẫy sản xuất, chăn nuôi, tại đây các đối tượng kết nối tài khoản facebook, zalo để xem, nghe truyền giảng kinh thánh. Nguyên nhân theo đạo Tin Lành là do sự lôi kéo của các đối tượng truyền đạo ở Tây Bắc và Tây Nguyên để chữa bệnh, giải quyết các bế tắc của cuộc sống; thoát bỏ các gánh nặng về kinh tế do phải thực hiện các phong tục, hủ tục nặng nề của người Mông.

Đến tháng 7/2023, dưới sự hậu thuẫn của Hội thánh Tin Lành Miền Bắc, số người theo đạo Tin Lành còn lại có những diễn biến phức tạp, tiếp tục tụ tập sinh hoạt đạo Tin Lành trái pháp luật. Phức tạp hơn, các đối tượng đã chuyển hình thức sinh hoạt lén lút ở lán, rẫy sản xuất sang hình thức công khai tại gia đình. Hơn nữa, Hội thánh Tin Lành Miền Bắc còn gửi hồ sơ đăng ký điểm nhóm sinh hoạt Tin Lành tới Ủy ban nhân dân các xã Na Ngoi (Kỳ Sơn), xã Tam Hợp (Tương Dương), xã Tri Lễ (Quế Phong). Trước tình hình phức tạp đó, càng đặt ra những yêu cầu và vai trò quan trọng của hệ HTCT ở cở sở trong việc nhận diện, đấu tranh chặn đứng các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị và đời sống xã hội cho nhân dân, trước hết là đồng bào người Mông ở các địa phương miền Tây tỉnh Nghệ An.

Vai trò nòng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở - “Phòng tuyến” vững chắc để giữ yên bản làng

Tỉnh Nghệ An, với đặc thù địa bàn rộng, địa hình chia cắt, dân cư phân tán, tỷ lệ đồng bào DTTS cao, luôn xác định HTCT ở cơ sở là “phòng tuyến” vững chắc để giữ gìn ổn định chính trị, trật tự xã hội. Từ diễn biến phức tạp của hoạt động truyền đạo Tin Lành trái pháp luật trên địa bàn các xã vùng cao của tỉnh Nghệ An, nắm vững chủ trương, quan điểm, nguyên tắc của Đảng về giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo, với phương châm “chủ động phòng ngừa từ sớm, từ xa; kịp thời phát hiện, khoanh vùng, không để lan rộng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, trong đó lấy biện pháp tuyên truyền, vận động quần chúng là chính”, cấp ủy, chính quyền địa phương đã phối hợp với các lực lượng vũ trang thực hiện đánh giá thực trạng, dự báo sát đúng tình hình, thống nhất một số nội dung, nhiệm vụ, giải pháp, xử lý, giải quyết hoạt động đạo Tin Lành trái pháp luật trên địa bàn các xã Tri Lễ, Na Ngoi, Tam Hợp đảm bảo đúng pháp luật, thực hiện công tác tuyên truyền vận động là chính, tập trung vào đồng bào Mông, đặc biệt là các đối tượng đã và đang có hoạt động sinh hoạt đạo Tin Lành trái pháp luật.

Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của cấp ủy, chính quyền địa phương cùng sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng biên phòng và công an, hoạt động truyền đạo Tin Lành trái phép đã được kiểm soát hiệu quả, số vi phạm giảm rõ rệt. Đã tuyên truyền, vận động các hộ gia đình người Mông cam kết không theo đạo, lập lại bàn thờ truyền thống và tự nguyện nộp lại giấy chứng nhận tín ngưỡng, với kết quả cụ thể: tại xã Tri Lễ (Quế Phong) số hộ theo đạo giảm từ 7 hộ (42 khẩu) xuống còn 3 hộ (17 khẩu); tại xã Tam Hợp (Tương Dương) số hộ theo đạo giảm từ 7 hộ (55 khẩu) xuống còn 5 hộ (43 khẩu), trong đó có 2 hộ (15 khẩu) đi lao động tại các tỉnh phía Nam đến cuối năm mới về; tại xã Na Ngoi (Kỳ Sơn) thì đã tăng cường kiểm soát, không để phát sinh người tham gia đạo (2). Cùng với đó, chính quyền đã ban hành văn bản không chấp thuận hoạt động nhóm Tin Lành tập trung do không đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Đồng thời, kịp thời ngăn chặn các đối tượng bên ngoài xâm nhập phát tán tài liệu truyền đạo trái phép; tăng cường giám sát, chủ động phòng ngừa việc lôi kéo người dân có hoàn cảnh khó khăn vào các hoạt động tín ngưỡng trái pháp luật.

Từ những kết quả đạt được nêu trên, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm về phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở trong công tác đấu tranh, ngăn chặn hoạt động truyền đạo trái pháp luật vùng đồng bào Mông tại các xã vùng cao tỉnh Nghệ An: 

Trước hết, bài học về công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động truyền đạo Tin Lành trái pháp luật.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc đồng bào Mông tham gia đạo Tin Lành trái phép là do thiếu hiểu biết pháp luật, nhẹ dạ cả tin, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn nên dễ bị dụ dỗ, lôi kéo. Tại các xã như Na Ngoi, Tam Hợp (nay là xã Tam Thái), Tri Lễ từng xuất hiện các nhóm tụ tập cầu nguyện tại nhà riêng, không đăng ký sinh hoạt, bị tác động bởi luận điệu như “cầu nguyện thay chữa bệnh”, “bỏ cúng ma để giàu có”,… Những hiện tượng này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ cộng đồng, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Trước tình hình đó, giải pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức đã và đang được xác định là nhiệm vụ trung tâm, mang tính chiến lược lâu dài nhằm phòng ngừa và đấu tranh hiệu quả với các hành vi vi phạm pháp luật về tôn giáo.

Vì vậy, công tác tuyên truyền cần hướng tới việc giúp người dân hiểu đúng chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phân biệt rõ giữa hoạt động tôn giáo hợp pháp với hành vi lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền mê tín, kích động ly khai, gây rối trật tự. Nội dung tuyên truyền cần thiết thực, dễ hiểu, gắn với tình hình cụ thể tại địa phương, tránh lý luận khô cứng. Các quy định pháp luật, quyền và nghĩa vụ khi tham gia sinh hoạt tôn giáo, hệ lụy của hoạt động truyền đạo trái phép cần được giải thích rõ, nhất là với đồng bào người Mông. Phương pháp tuyên truyền phải linh hoạt, đa dạng, kết hợp giữa tuyên truyền miệng, truyền thông đa phương tiện, tài liệu song ngữ (cả tiếng Việt và tiếng Mông), hình ảnh minh họa, giao lưu văn hóa kết hợp phổ biến chính sách. Chẳng hạn như mô hình “tổ tuyên truyền thôn bản” tại xã Na Ngoi với sự tham gia của già làng - người có uy tín, là điển hình cần nhân rộng.

Mặt khác, tuyên truyền muốn hiệu quả phải có sự vào cuộc đồng bộ của cả HTCT, đặc biệt là chính quyền cơ sở, công an, mặt trận, ban tôn giáo, đoàn thể. Đội ngũ cán bộ phải được tập huấn thường xuyên, hiểu phong tục tập quán, biết tiếng địa phương, có kỹ năng dân vận, thuyết phục. Đồng thời, tuyên truyền cần gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân, như hỗ trợ sản xuất, cải thiện hạ tầng, chăm lo an sinh. Thực tế cho thấy, tại các xã Na Ngoi, Tam Hợp (nay là xã Tam Thái), Tri Lễ, khi người dân được tiếp cận với các mô hình kinh tế hiệu quả, đời sống nâng lên, thì hiện tượng tụ tập truyền đạo trái phép giảm rõ rệt.

Hai là, bài học về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở góp phần ngăn chặn, đấu tranh với các hoạt động truyền đạo Tin Lành trái phép vùng đồng bào Mông.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội và phương tiện truyền thông hiện đại, các thế lực thù địch ngày càng triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để xâm nhập, truyền bá các loại hình tôn giáo trái phép, gây phức tạp tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng đồng bào DTTS, trong đó có đồng bào Mông. Một trong những hiện tượng đáng lo ngại là tình trạng truyền đạo Tin Lành trái phép diễn ra âm ỉ, tinh vi và có xu hướng lan rộng tại một số địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Trước thực tiễn đó, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ HTCT ở cơ sở không chỉ là yêu cầu khách quan nhằm tăng cường quản lý xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân, mà còn là giải pháp then chốt để ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động truyền đạo trái pháp luật.

Cần khẳng định rằng hệ HTCT ở cơ sở, bao gồm tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, là lực lượng gần dân, sát dân nhất. Đây là nơi trực tiếp triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến với người dân; đồng thời cũng là “tai mắt”, là “cánh tay nối dài” trong công tác nắm bắt tình hình, phát hiện, xử lý các vấn đề phát sinh từ cơ sở. Tuy nhiên, trong thực tiễn, HTCT ở nhiều địa bàn vùng cao, vùng đồng bào DTTS vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: năng lực cán bộ cơ sở chưa đồng đều, việc triển khai nhiệm vụ còn hành chính hóa, thiếu chiều sâu; khả năng nắm bắt và xử lý tình hình tư tưởng, tâm lý, tôn giáo trong nhân dân còn yếu; công tác phối hợp giữa các lực lượng thiếu nhịp nhàng, hiệu quả.

Để khắc phục những tồn tại đó, giải pháp cấp thiết đặt ra là cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả HTTC ở cơ sở theo hướng đồng bộ, thiết thực, sát với thực tiễn. Trước hết, phải coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, đặc biệt là ở các xã vùng cao có đông đồng bào Mông sinh sống. Những cán bộ là người dân tộc thiểu số, được đào tạo bài bản, am hiểu phong tục tập quán, được phân công về làm việc tại địa phương chính là những “hạt nhân chính trị” có vai trò hết sức quan trọng và cần được quan tâm. Mỗi chi bộ đảng ở bản là một pháo đài chính trị; mỗi đảng viên là một “người gác cổng” giữ gìn an ninh tư tưởng cho đồng bào. Đồng thời, tăng cường bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo, pháp luật, kỹ năng dân vận, giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp cho cán bộ cơ sở, nhằm nâng cao năng lực xử lý tình huống, đặc biệt là trước các biểu hiện truyền đạo trái phép. Cần lựa chọn, đào tạo và bố trí những cán bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, am hiểu phong tục tập quán, nói được tiếng dân tộc, có khả năng tuyên truyền, vận động hiệu quả. 

Bên cạnh đó, hệ HTTC ở cơ sở phải chủ động đổi mới phương thức hoạt động theo hướng gần dân, sát dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân, đặc biệt là đồng bào Mông, nhóm đối tượng dễ bị lôi kéo do còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần còn hạn chế, nhận thức pháp luật chưa đầy đủ. Việc tiếp cận, vận động phải mang tính nhân văn, kiên trì, thuyết phục, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, vừa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, vừa kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm pháp luật.

Mặt khác, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở cũng là yếu tố quan trọng nhằm tạo “hàng rào phòng ngự” từ trong nhân dân. Kinh nghiệm tại xã Na Ngoi, Tam Hợp (nay là xã Tam Thái), Tri Lễ cho thấy, khi chính quyền phối hợp chặt chẽ với già làng, trưởng bản và người có uy tín trong cộng đồng để giải thích, thuyết phục, thì nhiều trường hợp đã tự nguyện từ bỏ sinh hoạt tôn giáo trái phép, trở lại sinh hoạt cộng đồng lành mạnh. Cho nên, khi người dân được trang bị đầy đủ thông tin, được tạo điều kiện tham gia quản lý xã hội, nâng cao dân trí và ý thức pháp luật, thì sẽ hình thành “sức đề kháng” trước các hoạt động truyền đạo trái phép.

Qua đó cho thấy, trong cuộc đấu tranh phòng, chống hoạt động truyền đạo Tin Lành trái phép ở vùng đồng bào Mông, giải pháp then chốt và có tính bền vững lâu dài chính là xây dựng một HTCT cơ sở thực sự vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn bó mật thiết với nhân dân, thấu hiểu dân, vì dân phục vụ. Chỉ khi nào cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy của nhân dân, thì khi đó các hiện tượng tôn giáo trái phép mới không còn “đất sống” để tồn tại và phát triển.

Ba là, bài học về việc lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Mông gắn với công tác dân vận.

Trong bối cảnh tình hình tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS, đặc biệt là tại các bản làng người Mông ở Nghệ An, còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, việc lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vào công tác dân vận không chỉ là yêu cầu phát triển bền vững mà còn là giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động truyền đạo Tin Lành trái phép đang len lỏi vào đời sống người dân. Vì trên thực tế, các thế lực phản động thường lợi dụng đời sống khó khăn, trình độ dân trí hạn chế và những vướng mắc trong tâm linh của một bộ phận đồng bào Mông để tuyên truyền, lôi kéo, dụ dỗ theo đạo trái phép, từ đó từng bước hình thành tổ chức, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị và trật tự xã hội. Do vậy, muốn “gỡ nút thắt” từ gốc, không thể chỉ tuyên truyền suông, mà phải gắn việc dân vận với lợi ích thiết thân của người dân thông qua các chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa mới, cải thiện dân trí và tạo sinh kế bền vững.

Theo đó, HTCT ở cơ sở, thông qua các chương trình, kế hoạch, cần có sự lồng ghép có hiệu quả các chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xây dựng hạ tầng nông thôn, chăm sóc sức khỏe, phổ cập giáo dục… sẽ từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp người dân có “miếng ăn, cái mặc”, có niềm tin vào chính quyền và không còn bị chi phối bởi những luận điệu mê tín trá hình. Khi đời sống được cải thiện, nhận thức được nâng cao, đồng bào sẽ chủ động hơn trong việc đấu tranh với các hành vi tuyên truyền trái pháp luật, không nghe, không tin, không theo các tà đạo, mê tín, dị đoan.

Hơn nữa, công tác dân vận khi gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội còn tạo điều kiện để cấp ủy, chính quyền cơ sở tiếp cận sâu sát hơn với nhân dân, qua đó kịp thời phát hiện, nắm bắt và xử lý các biểu hiện bất thường trong sinh hoạt tín ngưỡng. Đồng thời, phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín, những người có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng để truyền đi thông điệp đúng đắn, bác bỏ các luận điệu sai trái, và giữ vững tinh thần đoàn kết, tự chủ trong bản làng.

Để đạt hiệu quả cao, việc lồng ghép này cần được tiến hành đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng làm công tác dân vận, mặt trận, đoàn thể với các cơ quan chuyên trách về dân tộc, tôn giáo và phát triển nông thôn. Cần xây dựng các mô hình điểm về “bản làng không có đạo lạ”, “khu dân cư phát triển toàn diện”, qua đó nhân rộng điển hình, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng.

Bốn là, bài học về phát huy vai trò của lực lượng vũ trang địa phương, đặc biệt là bộ đội biên phòng và công an trong đấu tranh, ngăn chặn hoạt động truyền đạo Tin Lành trái pháp luật.

Lực lượng cán bộ biên phòng tăng cường giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy xã, đảng viên tham gia sinh hoạt tạm thời tại chi bộ thôn, bản; đảng viên tại các đồn biên phòng được phân công phụ trách, giúp đỡ các hộ gia đình phát triển kinh tế... cần tiếp tục được phát huy mạnh mẽ vai trò trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng. Thông qua việc bám sát cơ sở, trực tiếp tiếp xúc với người dân, đội ngũ này đóng vai trò là cầu nối quan trọng giữa cấp ủy, chính quyền với đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân vận, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Cùng với đó, cần thực hiện nghiêm túc và hiệu quả phương châm “4 cùng, 4 nắm” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc; nắm chắc tình hình dân cư, nắm rõ tâm tư nguyện vọng của người dân, nắm bắt hoạt động tôn giáo và các dấu hiệu vi phạm pháp luật, nắm vững địa bàn). Đây là cơ sở quan trọng để chủ động nắm bắt, đánh giá đúng tình hình, kịp thời phát hiện những biểu hiện, dấu hiệu liên quan đến các hoạt động tuyên truyền, phát triển đạo Tin Lành trái pháp luật. Đặc biệt là việc phát hiện, ngăn chặn các hành vi cung cấp, vận chuyển tài liệu, ấn phẩm truyền đạo, tổ chức sinh hoạt tôn giáo trái phép tại các điểm dân cư.

Song song với đó, các lực lượng chức năng cần đẩy mạnh hoạt động tuần tra, kiểm soát, chốt chặn tại các đường mòn, lối mở, điểm qua lại tự phát trên tuyến biên giới. Việc tăng cường kiểm soát biên giới không chỉ giúp phát hiện sớm các đối tượng truyền đạo trái phép mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp, kiên quyết trục xuất, đẩy đuổi ra khỏi địa bàn các phần tử lợi dụng tôn giáo để xâm nhập, truyền bá tư tưởng phản động, gây mất ổn định an ninh trật tự.

Bên cạnh đó, lực lượng công an địa phương cần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, hộ tịch và cư trú, đặc biệt là người tạm trú, tạm vắng tại các khu vực nhạy cảm. Việc rà soát kỹ lưỡng nhằm phát hiện các đối tượng từ bên kia biên giới mang theo tài liệu tuyên truyền đạo Tin Lành trái phép vào nội địa, hoặc những cá nhân lạ mặt đến địa bàn với mục đích lợi dụng tôn giáo để truyền đạo trái pháp luật, là yêu cầu cấp thiết. Qua đó, kịp thời ngăn chặn sự xâm nhập, lan truyền của các hoạt động tôn giáo không đúng quy định, bảo đảm sự ổn định về tư tưởng, niềm tin tôn giáo của người dân, nhất là đồng bào DTTS tại khu vực biên giới.

Có thể khẳng định, việc phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng như bộ đội biên phòng, công an địa phương, chính quyền cơ sở và nhân dân là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống hoạt động truyền đạo trái pháp luật. Đồng thời, thông qua công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, cần tạo dựng môi trường sống ổn định, lành mạnh cho người dân, từ đó giảm thiểu nguy cơ bị lôi kéo, dụ dỗ vào các hoạt động tôn giáo sai trái.

Từ thực tiễn ở các bản làng người Mông trên địa bàn miền Tây tỉnh Nghệ An hiện nay, có thể khẳng định, chỉ khi HTCT ở cơ sở thực sự mạnh, gần dân, hiểu dân và vì dân, thì mới đủ sức ngăn chặn bàn tay lạ đang lợi dụng tín ngưỡng để xâm nhập, chia rẽ và thao túng cộng đồng. Giữ vững bình yên cho bản làng hôm nay không chỉ là nhiệm vụ chính trị, mà còn là bảo vệ sự bình an trong tâm thức, sự bền vững của một vùng biên cương thiêng liêng của Tổ quốc.

1. Dẫn theo: https://baonghean.vn: Kiên quyết, kiên trì ngăn chặn truyền đạo trái phép.

2. Theo Báo cáo số 115/BTG-Cg ngày 30/8/2024 về việc tham mưu UBND tỉnh về việc báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Kế luận 101-KL/TW ngày 03/9/2024 về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành, của Ban Bí thư Trung ương Đảng.