Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 11)

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc tác phẩm “Lịch sử Việt Nam từ tiền sử đến năm 2007” của PGS TS Cao Văn Liên  do NXB Thanh niên ấn hành năm 2009.
cvl2-1625442856.jpg
Chú thích ảnh

Kỳ 11

Thế kỷ XIV, đế quốc Mông cổ suy vong. Năm 1368, Hãn Mông Cổ  là Temur bị Chu Nguyên Chương lật đổ ở Trung Quốc, mở ra thời kỳ sụp đổ của đế quốc Mông Cổ và sau đó nó chấm dứt tồn tại trên bản đồ thế giới với tư cách là một đế quốc.

Cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258: Trên con đường xâm lược làm bá chủ thế giới, đế quốc Mông Cổ xâm lược Đại Việt để sáp nhập vào bản đồ rộng lớn của chúng, làm bàn đạp tiến xuống xâm lược Đông Nam châu Á. Riêng cuộc xâm lược lần thứ nhất còn nhằm mở gọng kìm tấn công phía Nam, phối hợp với mũi tấn công phía bắc tiêu diệt nhà Nam Tống.

Đầu năm 1258, 3 vạn quân Mông cổ tinh nhụê do tướng Ngột Lương Hợp Thai (U ri ang khai đai) chỉ huy từ Vân Nam Trung Quốc theo đường sông Hồng tiến vào Đại Việt. Ngày 17 tháng 1 năm 1258, quân địch tiến tới Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc). Quân thuỷ,  bộ của ta do vua Trần Thái Tông chỉ huy nhằm mở cuộc huyết chiến với giặc tại đây. Thế giặc rất mạnh. Nghe theo lời khuyên của Lê Tần, quân ta rút về Phù Lỗ, Cà Lồ rồi rút khỏi kinh thànhThăng Long, theo đường sông Hồng về Thiên Mạc (Khoái Châu –Hưng Yên). Như vậy ta đã rút lui chiến lược . Quân Mông Cổ buộc phải đánh lâu dài nên lâm vào tình trạng thiếu lương thực, đau ốm, bị chiến tranh du kích của ta tiêu hao. Giặc điên cuồng đốt phá kinh thành Thăng Long nhưng không cứu vãn được tình thế thất bại. Ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân ta do vua Trần Thái Tông chỉ huy từ Thiên Mạc theo đường sông Hồng mở cuộc phản công tiêu diệt địch ở Đông Bộ Đầu (Khu vực gần Hồ Gươm ngày nay). Địch thua to theo đường sông Hồng chạy về Vân Nam (Trung Quốc), dọc đường bị quân dân ta phục kích,  truy kích tiêu hao thiệt hại nặng nề, 3 vạn quân chỉ còn 5000 tên chạy thoát. Lúc này là năm Nguyên Phong thứ 7 (niên hiệu vua Trần Thái Tông). Thắng lợi của cuộc kháng chiến lần thứ nhất tạo nên niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc, chứng minh ta có thể chiến thắng được quân Mông Cổ, một đế quốc dường như bất khả chiến bại khi đó. Thắng lợi của Đại Việt đã trả lời được câu hỏi lớn của thời đại: quân đội của đế quốc Mông Cổ có thể bị đánh bại hay không? Năm 1258, câu hỏi này đã được trả lời ở Đại Việt. Các dân tộc có thể đánh bại bất cứ một cuộc chiến tranh xâm lược nào nếu như giai cấp cầm quyền còn tiến bộ, biết kết hợp quyền lợi vương triều với quyền lợi dân tộc, từ đó  có khả năng đoàn kết dân tộc để thực hiện kháng chiến toàn dân. Phải biết rút lui chiến lược tạo cơ hội khi địch suy yếu thì phản công chiến lựợc tiêu diệt chúng.

Cuộc kháng chiến lần thứ 2 từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1285: Thờigian từ cuộc kháng chiến lần 1 đến cuộc kháng chiến lần 2 kéo dài 30 năm vì Hốt Tất Liệt còn tập trung lực lượng tiêu diệt nhà Nam Tống, chinh phục toàn Trung Quốc. Trong thời gian này, Mông Cổ liên tiếp cử các sứ thần xuống Đại Việt đe doạ, uy hiếp nhằm buộc nhà Trần khuất phục. Vương triều Trần mềm dẻo về sách lược nhưng kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và danh dự quốc gia. Mặt khác, nhà Trần ra sức chuẩn bị kháng chiến vì chiến tranh là điều không thể tránh khỏi.

Tháng 12 năm 1282, nhà Trần họp hội nghị quân sự  ở Bình Than (Lục Đầu Giang-Hải Dương) bao gồm các tướng lĩnh cao cấp chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Tại hội nghị này, Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo Đại Vương) được cử giữ chức Quốc công tiết chế (Tổng tư lệnh quân đội). Trần Quốc Tuấn viết bài “Hịch tướng sĩ” động viên tinh thần yêu nước, quyết tâm tiêu diệt giặc của các tướng sĩ .  Ông còn viết “Binh thư yếu lược” đúc kết kinh nghiệm chiến tranh, nguyên nhân thắng lợi và đề ra chiến lược, chiến thuật cho cuộc chiến tranh sắp tới. Tiếp đó,  đầu năm 1285, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông mở hội nghị Diên Hồng, triệu tập tất cả bô lão (người cao tuổi) trong toàn quốc để củng cố tinh thần đoàn kết, quyêt tâm tiêu diệt giặc của toàn dân. Nhà Trần đã chuẩn bị tinh thần, vật chất, chiến lược, chiến thuật cho toàn dân tộc bước vào cuộc chiến tranh sinh tử với quân thù.

Năm 1260, Hốt Tất Liệt lên ngôi Hãn của toàn đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu là Nguyên. Năm 1279, nhà Nam Tống bị quân Mông Cổ tiêu diệt. Trung tâm của đế quốc Mông Cổ chuyển về Trung Quốc, biên giới của đế quốc này đã sát liền với biên giới Đại Việt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc xâm lược.

Tháng 1 năm 1285, Hốt Tất Liệt huy động 50 vạn quân tinh nhuệ, 3 vạn thạch lương do Thái tử Thoát Hoan (Tô Gan) chia làm 3 đạo tiến vào nước ta. Đạo chủ lực gồm 30 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy tiến vào Lạng Sơn, đạo thứ 2 theo đường Lào Cai - sông Hồng do Na xi rút đin chỉ huy, đạo thứ 3 do Toa Đô (Xô ghê tu) từ năm 1282 đã vượt biển đánh Chiêm Thành, bây giờ được lệnh quay ra đánh vào Đại Việt, tạo nên gọng kìm phía Nam. Ngoài quân đội tinh nhuệ và kế hoạch “Hai gọng kìm” Nam - Bắc, nhà Nguyên còn huy động nhiều tướng soái tài giỏi, quen chiến trận như Lý Hằng, công thần của nhà Nguyên, A rích kha y a kẻ đã cầm quân trong chiến dịch tiêu diệt nhà Nam Tống, Toa Đô và nhiều tướng lĩnh khét tiếng hung bạo của đế quốc Nguyên- Mông.

Trước thế mạnh của giặc, cuộc kháng chiến của ta trên ba mặt trận gặp nhiều khó khăn, quân ta phải rút lui. Tại mặt trận phía bắc 20 vạn quân ta do Trần Quốc Tuấn chỉ huy đối mặt với 30 vạn quân Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Ngày 2 tháng 2 năm 1285, Thoát Hoan tấn công Vạn Kiếp, quân ta bỏ Vạn Kiếp rút về Bình Than, rồi bỏ Bình Than, bỏ phòng tuyến sông Hồng rút lui khỏi kinh thành Thăng Long về hạ lưu sông Hồng. Giặc chiếm kinh thành Thăng Long.

Ở mặt trận Tây Bắc, quân ta dưới sự chỉ huy của tướngTrần Nhật Duật chặn đánh địch ở Thu Vật ( Yên Bình - Yên Bái) rồi rút về Bặch Hạc (Phú Thọ), sau đó rời Bạch Hạc về hạ lưu sông Hồng hội quân với Trần Quốc Tuấn. Quân Nguyên- Mông truy đuổi ráo riết nhằm bắt sống triều đình, tiêu diệt quân chủ lực ta để nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Mặt trận quân ta ở Thiên Mạc (Khoái Châu –Hưng Yên) bị vỡ, tướng Trần Bình Trọng bị giặc bắt, không đầu hàng nên bị giết.

Tại mặt trận phía Nam, quân ta do Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải chỉ huy quyết chiến chặn giặc nhưng thế giặc quá mạnh phải rút lui. Một số quí tộc nhà Trần nao núng hoảng sợ, Trần Ich Tắc (em Trần Quang Khải) chạy theo giặc. Ở mặt trận phía Nam Trần Quốc Khang và con là Trần Kiện đem 1 vạn quân hàng Toa Đô càng làm cho cuộc kháng chiến khó khăn. Khi đó triều đình rút về Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình), đang bị hai gọng kìm từ phía Bắc và phía Nam của giặc kẹp vào giữa, Toa Đô từ Thanh Hoá đánh ra, Thoát Hoan từ Thiên Trường (Nam Định) đánh vào. Cuộc kháng chiến của ta bước vào giai đoạn khó khăn, hiểm nghèo nhất. Triều đình, đầu não của cuộc kháng chiến bị đe doạ nghiêm trọng. Trong tình thế nghìn cân treo sợi tóc đó, Trần Quốc Tuấn vạch ra một kế hoạch tài tình, đưa triều đình rút ra Hải Phòng - Quảng Ninh. Khi quân Toa Đô ra đến Trường Yên, triều đình lại quay về Thanh Hoá. Kế hoạch bao vây bắt sống triều đình Trần của Thoát Hoan - Toa Đô thất bại. Toa Đô lại được lệnh đánh quay vào Thanh Hoá. Khi đó là tháng 5 năm 1285 kết thúc giai đoạn rút lui chiến lựợc,  quân ta bước sang giai đoạn phản công chiến lược tiêu diệt quân thù.   

Giai đoạn phản công chiến lược: Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn đem quân chủ lực từ Thanh Hoá vượt biển tiến ra Bắc, cắt đôi quân địch không cho đạo quân Toa Đô gặp đạo quân Thoát Hoan. Từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 4 tháng 6 năm 1285, Trần Quốc Tuấn cho quân phản công trên khắp các mặt trận. Trần Quốc Tuấn tấn công đồn A lỗ (Nam Định), Trần Nhật Duật đem quân tấn công giặc ở cửa Hàm Tử (Khoái Châu -Hưng Yên), Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải đem quân diệt giặc ở Chương Dương (Thường Tín - Hà Tây). Tất cả hệ thống phòng thủ của địch trên sông Hồng đều bị công phá. Quân dân các phủ,  lộ phối hợp với quân triều đình đồng loạt tấn công tiêu diệt địch như quân của Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền hoạt động rất hiệu quả. Để tránh nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, Thoát Hoan bỏ Thăng Long rút sang bờ bắc sông Hồng và tháo chạy về nước. Dọc đường bị 20 vạn quân của Trần Quốc Tuấn chặn đánh, quân Nguyên-Mông đại bại, Thoát Hoan chạy đến bến sông Như Nguyệt bị đội quân của vị thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản tập kích tiêu diệt. Trong trận này, Trần quốc Toản hi sinh. Chạy đến sông Thương, quân Nguyên - Mông bị quân Trần đổ ra đánh, đến Vĩnh Bình lại bị quân của Hưng Vũ Vương (con Trần Quốc Tuấn) chặn đường. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới chạy thoát. Lý Hằng tướng cao cấp của giặc bị trúng tên thuốc độc chết.

Đạo quân của Na xi rút đin tháo chạy theo hướng Tây Bắc về Vân Nam, bị dân binh các dân tộc thiểu số do Hà Đặc, Hà Chương chặn đánh tan tác ở Phù Ninh (Phú Thọ).

Đạo quân Toa Đô cố tiến ra Bắc phối hợp với quân Thoát Hoan, bị quân ta vây đánh ở Tây Kết, Toa Đô bị quân ta chém đầu tại trận. Ô mã Nhi phải chạy trốn theo đường biển. Đó là ngày24 tháng 6 năm 1285. Cuối tháng 6 năm đó, đất nước Đại Việt sạch bóng quân thù. Ngày 9 tháng 7 năm 1285, Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông trở về Thăng Long, cùng quân dân ca khúc khải hoàn.

Cuộc kháng chiến lần thứ 3 tháng 12 năm 1287 đến tháng 4 năm 1288: Để xâm lược Đại Việt,  báo thù cho hai lần thất bại, Hốt Tất Liệt huy động 50 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy mở cuộc tấn công Đại Việt lần 3. Tháng 12 năm 1287, quân Nguyên chia làm 3 đạo tiến vào nước ta: đạo chủ lực gồm bộ binh và kỵ binh do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy tiến vào Lạng Sơn, đạo thứ hai do tướng Ai Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo đường sông Hồng tiến xuống. Đạo thuỷ binh gồm 600 chiến thuyền do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy, có đoàn thuyền chở 70 vạn hộc lương do Trương Văn Hổ phụ trách đi theo đường biển vào sông Bặch Đằng.

Trên khắp các mặt trân, quân ta theo kế hoặch của Trần Quốc Tuấn thực hiện rút lui chiến lược. Tháng 12 năm 1287, chủ lực quân Thoát Hoan tràn vào Vạn Kiếp. Trần Quốc Tuấn rút khỏi Vạn Kiếp, sau đó rút khỏi kinh thành Thăng Long. Tại mặt trận Tây bắc (Việt trì-Phú Thọ), 4 vạn quân ta do Trần Nhật Duật chỉ huy tác chiến với quân của Ai Lỗ, Mộc Ngột, sau đó quân ta cũng rút lui. Đạo thuỷ binh của Ô mã Nhi, Phàn Tiếp tiến rất nhanh vào sông Bạch Đằng, bỏ đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ đi sau, không có chiến thuyền hộ tống, bị tướng Trần Khánh Dư tiêu diệt tại Vân Đồn (Cẩm Phả-Quảng Ninh). Mất đoàn thuyền lương 70 vạn hộc sẽ làm cho quân Nguyên - Mông khó khăn về lương thực, ảnh hướng lớn đến toàn bộ cục diện cuộc chiến tranh xâm lược.

(Còn nữa)

CVL