Kỳ 27.
Trong số danh nhân lỗi lạc của thế kỷ này nổi bật Lê Quí Đôn, nhà bác học xuất sắc thế kỷ XVIII với kiến thức uyên bác nhiều lĩnh vực: thơ, văn, sử, địa lý, triết học, y học, thiên văn, nông học với 50 bộ sách bao quát tất cả cảc tri thức đương thời. Tác phẩm “Vân đài loại ngữ” của ông là bộ bách khoa toàn thư, tập hợp tất cả những tri thức của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên của nhiều thế kỷ. Trong đó ông thống kê vào thế kỷ XVIII nước ta có 18 giống lúa. Y học cổ truyền tiếp tục phát triển mà tiêu biểu chói sáng là nhà y dược Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông:1720-1791). Ông sưu tầm được 305 vị thuốc nam, tạo nên 2.854 phương thuốc chữa hàng trăm chứng bệnh. Ông cho rằng môi trường, khí hậu có ảnh hưởng đến cơ thể con người. Từ nhận định khoa học đó ông đề ra phương pháp chẩn đoán bệnh và điều trị bệnh thích hợp. Bộ sách lớn của ông: “Hải thượng y tâm tĩnh” gồm 66 quyển đã tổng kết toàn bộ phương pháp y học cổ truyền, xây dựng toàn bộ lý, pháp, phương, dược của nền y học Việt Nam thời kỳ trung đại. Ông nêu cao y đức, chỉ cần giúp người mà không cầu lợi. Hải Thượng Lãn Ông còn là nhà văn, nhà thơ xuất sắc. Các tác phẩm của ông mang đậm tinh thần nhân đạo, yêu nước , thương nòi.
Chế độ phong kiến không lưu ý phát triển kỹ thuật. Tuy nhiên Nguyễn Văn Tú (Quảng Trị) đã chế tạo được đồng hồ máy và ống nhòm. Những người thợ trong xưởng đóng tàu nhà Nguyễn thành công trong việc thử chế tạo tầu chạy bằng hơi nước.
Ngoài Phật giáo, Hồi giáo, đạo Bà la môn đã có từ trước, thế kỷ XVII Thiên chúa giáo do các cố đạo Bồ Đào Nha và Pháp truyền bá vào Việt Nam. Năm 1668 “Hội truyền giáo nước ngoài” của Pháp được thành lập. Hội này ra sức truyền bá đạo Thiên chúa vào Việt Nam. Giáo sĩ Alếch xanđrốt đã hoạt động 30 năm ở Việt Nam và thu được nhiều kết quả. Để truyền đạo, các giáo sĩ trước hết phải biết tiếng Việt. Họ dùng chữ La tinh ghi âm tiếng Việt để học. Chữ quốc ngữ xuất hiện. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha dùng chữ quốc ngữ để soạn sách giáo lý và soạn từ điển “Việt- Bồ”. Năm 1649 giáo sĩ Alếch xan đrốt đã xuất bản ở Rôma cuốn từ điển Việt- Bồ bằng tiếng La tinh và một cuốn “Giáo lý cương yếu” bằng tiếng Việt Nam. Các giáo sĩ Phương Tây chế ra chữ quốc ngữ ban đầu với mục đích truyền giáo. Sau này vào thế kỷ XX người Việt Nam biết sử dụng làm thành chữ viết của mình. Tuy nhiên, chữ quốc ngữ trong các thế kỷ này chưa có tác dụng gì trong sự phát triển văn hoá Việt Nam.
Sự khủng hoảng suy tàn của chế độ phong kiến và đạo đức phong kiến làm cho Nho giáo cũng sụp đổ, suy tàn dù thế kỷ XIX vương triều Nguyễn ra sức duy trì và củng cố.
Về hoạt động lập pháp thế kỷ XVI, XVII, XVIII ở Đàng Ngoài không có gì đáng kể. Năm 1777 triều đình Lê-Trịnh ban hành bộ “Quốc triều điều lệ”, nội dung cơ bản như “Luật Hồng Đức”, có bổ sung thêm như cấm truyền đạo Thiên chúa vào Đại Việt. Ở Đàng Trong cơ bản thực hiện pháp luật nhà Lê. Thế kỷ XVIII chúa Nguyễn có ban hành một số đạo luật về kinh tế, tài chính, luật về sở hữu ruộng đất và thuế ở ruộng đất mới khai phá. Dưới triều đại Tây Sơn vua Quang Trung ban hành một số văn bản mang tính chất pháp lý như “Chiếu lên ngôi năm 1789”, “Chiếu cầu hiền”, “Chiếu khuyến nông”, “Chiếu Lập học” và một số qui định thuế khoá nhằm tiến hành cải cách kinh tế, văn hoá, xã hội.
Năm 1815 vương triều Nguyễn công bố Bộ luật Gia Long, gọi là “Hoàng triều luật lệ”. Bộ luật gồm 398 điều, 22 quyển, các điều khoản của bộ luật chia thành 6 loại mà nội dung tương ứng với công việc của 6 bộ phụ trách như hình luật, lại luật, công luật, lễ luật, binh luật và hộ luật. Nội dung chính của các qui phạm bao gồm những chế định về hôn nhân gia đình, về dân sự, hình sự, luật tố tụng. Tư tưởng Nho giáo chi phối tuyệt đối trong “Hoàng Việt luật lệ”, tư tưởng đàn áp xuyên suốt bộ luật. Các học giả Pháp khi đó cũng phải thừa nhận đây là bộ luật tàn nhẫn rập khuôn theo luật nhà Thanh Trung Quốc, một thứ luật lệ của kẻ thống trị ngoại tộc.
Giáo dục Thế kỷ XVI, XVII, XVIII, XIX và 20 năm đầu của thế kỷ XX vẫn duy trì Nho học. Kết quả thi cử Nho học như sau:
Triều đại Số khoa thi Tiến sĩ Trạng nguyên
Mạc 22 485 20
Lê trung hưng 73 493 6
Nguyễn 40 588 0
Nhà Nguyễn không lấy học vị Trạng nguyên trong thi Nho . Khoá thi cuối cùng của Nho học là năm 1919. Khoa thi đầu tiên năm 1075 triều Lý đến khoa thi cuối cùng năm 1919 triều của Nguyễn, tổng cộng đã có 185 khoá thi, 2.906 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 56 người đỗ Trạng nguyên. Nguyễn Hiền người phủ Thiên Trường Nam Định đỗ Trạng nguyên năm 13 tuổi đời vua Trần Thái Tông năm 1247. Có lẽ Trạng nguyên đầu tiên của nước nhà là Lê Văn Thịnh (Gia Lương-Bắc Ninh) đỗ khoa thi đầu tiên năm 1075 thời Lý. Trạng nguyên cuối cùng là Trịnh Huệ (Quảng Xương-Thanh hoá) đỗ khoa thi năm 1736 đời Lê Y Tông.
PHẦN IV: THỜI KỲ CẬN ĐẠI (1858-1945)
CHƯƠNG V: PHÁP XÂM LƯỢC VIỆT NAM VÀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 50 NĂM CUỐI KỶ XIX.
I:pháp xâm lược Việt Nam.
Pháp tấn công Đà Nẵng: Chiều ngày 31 tháng 8 năm 1858, Liên quân Pháp-Tây Ban Nha gồm 2.500 quân (450 lính Tây Ban Nha), 13 chiến thuyền, trang bị vũ khí hiện đại, có tàu chiến đặt tới 50 đại bác, dưới quyền chỉ huy của sĩ quan Pháp Đơ Giơ nui, có giám mục Pe rơ lanh làm cố vấn nổ súng tấn công Đà Nẳng, bắt đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Nếu hoàn thành việc đánh chiếm Đà Nẵng, pháp sẽ vượt đèo Hải Vân tấn công kinh thành Huế, buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Dưới sự chỉ huy của Tổng thống quân thứ Quảng Nam Nguyễn Tri Phương, quân ta đã kìm chân được quân Pháp. Âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng thất Thất bại ở Đà Nẵng, Đơ Giơ nui thấy phải tính kế lâu dài, đưa quân vào đánh Gia Định để chiếm một vùng giầu lúa gạo, từ đó đánh chiếm Cam pu chia, Lào và chiếm toàn bộ Đông Dương. Ngày 10 tháng 2 năm 1859, hải quân Pháp đánh phá Vũng Tàu. Quân pháp tiến đánh Cần Giờ, Nhà Bè. Ngày 17 tháng 2, Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Gia Định thất thủ. Hộ đốc Võ Duy Ninh và Án sát Lê Từ tự sát. Thượng thư bộ hộ Tôn Thất Cáp, kế đó Nguyễn Tri Phương được cử làm Tổng thống quân vụ mặt trận. Nhưng cả hai đều án binh bất động, qua 5 tháng với hàng vạn quân mà không tiêu diệt được 1.000 quân pháp ở thành Gia Định. Ngày 23 tháng 2 năm 1861, 4.000 quân Pháp với 50 chiến thuyền do Đô đốc Sác Ne chỉ huy tấn công Đại đồn Gia Định. Sau hai ngày chiến đấu, Nguyễn Tri Phương bị thương, Đại đồn thất thủ. Triều đình Tự Đức khiếp sợ không nghĩ tới chiến mà chỉ nghĩ tới hoà.
Ngày 28 tháng 2 năm đó Pháp chiếm phủTân Bình, ngày 12 tháng 4 Pháp chiếm thành Định Tường, 18 tháng 12 Biên Hoà mất, 23 tháng 3 năm 1862, Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Nhân dân các tỉnh miền Đông, miền Tây kháng chiến quyết liệt gây cho Pháp nhiều thiệt hại và chúng ở trong tình trạng hết sức nguy ngập. Đúng lúc đó, triều đình Huế ký hoà ước. Chính thực dân Pháp phải thốt lên: “May mắn thay đang lúc phải đón lấy một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu ký hoà ước”. Ngày 5 tháng 6 năm 1862 Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp thay mặt Tự Đức ký với Pháp “Hiệp ước hoà bình và hữu nghị”. Hiệp ước gồm 12 khoản qui định triều đình Huế nhường cho Pháp 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) và đảo Côn Lôn, bồi thường chiến phí cho Pháp 2. 880. 000 lạng bạc (4.000.000 USD), mở các cửa biển Đà Nẳng, Bà Lạt, Quảng Yên cho Pháp và Tây Ban Nha buôn bán. Do thái độ hèn nhát đầu hàng của triều đình Huế, chỉ 5 ngày từ 20 đến 24 tháng 6 năm 1867 Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên(Còn nữa)
(Còn nữa)
CVL