Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 41)

PGS TS Cao Văn Liên

04/02/2023 06:03

Theo dõi trên

Trân trọng giới thiệu sách “Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007)” của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh niên ấn hành.

Kỳ 41.

Cao trào kháng Nhật cứu nước: Đầu tháng 3 năm 1945, phát xít Đức, đồng minh của phát xít Nhật đang thất bại trên khắp các chiến trường châu Âu và sắp bị Liên Xô và Đồng minh tiêu diệt. Trên chiến trường Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng  ở vào thế bất lợi. Tình hình đó buộc Nhật phải đảo chính lật đổ Pháp ở Đông Dương, đề phòng bị đánh úp sau lưng. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp và độc quyền thống trị Đông Dương. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị nêu rõ, sự biến ngày 9 tháng 3 tạo điều kiện cho tình thế cách mạng chín muồi. Đó là nền chính trị Đông Dương khủng hoảng, kẻ thù thống trị đã cắn xé nhau. Tầng lớp trung gian hoang mang, nạn đói thảm khốc do quân Nhật gây ra đẩy nhân dân Đông Dương vào con đường cùng, họ đã sẵn sàng vùng dậy.

b1acach-mang-thang-tam-19082020-1675415528.jpg

Sáng 19/8/1945, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ảnh: Tư liệu TTXVN

 

 

Chiến tranh thế giới thứ hai đang đến hồi quyết liệt. Chỉ thị  xác định kẻ thù chính trước mắt của cách mạng Đông Dương là phát xít Nhật. Cho nên phải thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp” trước đây bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.  Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, phát động chiến tranh du kích, đẩy mạnh tuyên truyền có vũ trang, phát động phong trào phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đáp ứng nhu cầu bức thiết của quần chúng, lại huy động quần chúng lên trận tuyến cách mạng, sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ. Về thời cơ cách mạng, chỉ thị dự kiến khi Nhật bại trận trong đại chiến thế giới thứ hai là thời cơ khách quan thuận lợi nhất cho ta tổng khởi nghĩa giành chính quyền. “Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” có ý nghĩa chỉ đạo to lớn, đặc biệt là vấn đề xác định thời cơ cho tổng khởi nghĩa, là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng và toàn dân, thúc đẩy tình thế trực tiếp của cách mạng chín muồi, góp phần vào thắng lợi của cách mạng tháng Tám.

          Từ giữa tháng 3 năm 1945 cao trào kháng Nhật cứu nước bùng lên mạnh mẽ. Nhân dân ta tiến hành đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích khắp nơi, khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở từng địa phương. Kết quả ra đời khu giải phóng Việt Bắc và các căn cứ địa chiến khu trong toàn quốc, Quân giải phóng Việt Nam ra đời. Hàng triệu quần chúng nổi dậy phá kho thóc của Nhật, cứu đói đã đưa toàn dân lên ngưỡng cửa của tổng khởi nghĩa, sẵn sàng vùng dậy khi có thời cơ.

Diễn biến cách mạng tháng Tám: Ngày 9 tháng 5 năm 1945 chủ nghĩa phát xít Đức bị tiêu diệt, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngay sau đó, Liên Xô  tuyên chiến với phát xít Nhật. Ngày 6 tháng 8 năm 1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hi rô si ma, ngày 9 tháng 8 năm đó Mỹ ném tiếp quả thứ hai xuống Nagazaki giết chết hàng chục vạn người. Ngày 15 tháng 8 năm 1945 Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông, đạo quân tinh nhuệ bậc nhất của Nhật Bản ở Đông Bắc Trung Quốc. Sức cùng lực kiệt, ngày 15 tháng 8 năm 1945 Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. 6 vạn quân Nhật ở Đông Dương và chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Thời cơ tổng khởi nghĩa giành độc lập dân tộc đã đến. Ngày 13 tháng 8 năm 1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào (Tuyên Quang) hạ lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Ngày 16 tháng 8 năm 1945 Đại hội Quốc dân tại Tân Trào do Tổng bộ Việt Minh triệu tập tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng. Đại hội quốc dân quyết định lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm quốc ca, cử ra Chính phủ lâm thời (Uỷ ban dân tộc giải phóng) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chính phủ lâm thời gồm 13 bộ: Ngoại giao, Nội vụ, Thông tin tuyên truyền, Quốc phòng, Thanh niên , Bộ kinh tế quốc gia, Bộ cứu tế xã hội, Bộ tư pháp, Bộ Y tế, Bộ lao động, Bộ giao thông công chính, Bộ tài chính, Bộ quốc gia giáo dục .

          Ngày 16 tháng 8 năm 1945, quân giải phóng đánh chiếm thị xã Thái Nguyên, 17 tháng 8 chiếm thị xã Tuyên Quang, ngày 18 tháng 8 khởi nghĩa ở Bắc Giang, Hải Dương . v. v. Ngày 19 tháng 8 khởi nghĩa thành công ở Hà Nội. Ngày 23 tháng 8 khởi nghĩa thắng lợi ở Huế, 25 tháng 8 khởi ngghĩa thành công ở Sài Gòn. Từ 14 đến 28 tháng 8 năm 1945, chỉ 15 ngày tổng khởi nghĩa thành công trong cả nước, nhanh chóng, ít đổ máu duới những hình thái phong phú, sinh động đầy sáng tạo. Ngày 30 tháng 8 năm 1945 trước hàng vạn nhân dân Huế tại cửa Ngọ Môn, Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Vương triều Nguyễn đọc chiếu thoái vị, nộp ấn kiếm cho đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

          Vương triều Nguyễn do Nguyễn Ánh sáng lập (1802-1945), tồn tại 143 năm với  13 đời vua :

          1 . Gia Long Hoàng Đế –Nguyễn Ánh (1802-1819 )-17 năm .

          2 . Minh Mệnh Hoàng Đế (1820-1840 )-20 năm .

          3 . Thiệu Trị Hoàng  Đế (1841-1847 )-7 năm .

          4 . Tự Đức Hoàng Đế (1848-1883 )-35 năm .

          5 . Dục Đức -1883 (làm vua ba ngày ) .

          6 . Hiệp Hoà (6-11-1883 ).

          7 . Kiến Phúc (12-1883-8-1884 ) .

          8. Hàm Nghi (8-1884-8-1885 ), bị Pháp đưa lưu đày ở Angiêri

          9 . Đồng Khánh  (10-1885-12-1888 )-3 năm .

          10.Thành Thái (1-1889-7-1907 ) –18 năm, bị Pháp đày ở Rêuyniông .      

11. Duy Tân (1907-1916) -9 năm, bị Pháp lưu đày sang Rêuyniông

12 . Khải Định (1916-1925 )-9 năm .

13 . Bảo Đại (1926-1945 )-19 năm  .

 Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố trước quốc dân và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tuyên ngôn khẳng định quyền hưởng tự do độc lập là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam, là ý chí quyết tâm không sức mạnh gì có thể lay chuyển nổi. Nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững nền tự do độc lập. “Tuyên ngôn độc lập” là kết tinh quyền lợi và nguyện vọng cơ bản của nhân dân, là kết quả của quá trình đấu tranh anh dũng liên tục hàng trăm năm của nhân dân Việt Nam.

          Cách mạng tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử tiến hoá của dân tộc. Sự kiện trọng đại này đã kết thúc thời kỳ thuộc địa nửa phong kiến, mở ra một thời đại mới cho lịch sử dân tộc. Cách mạng tháng Tám đã đập tan ách đô hộ gần 100 năm của thực dân Pháp, 5 năm  dưới gót sắt tàn bạo của phát xít Nhật, lật đổ chế độ phong kiến phản động phản dân hại hước, tay sai của bọn xâm lược ngoại bang, lập nên nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng đã đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến thành nước độc lập tự do dân chủ, đưa nhân dân ta từ nô lệ lên địa vị chủ nhân đất nước, thành người dân tự do, đưa Đảng Cộng sản Đông Dương từ địa vị không hợp pháp thành Đảng cầm quyền. Cách mạng tháng Tám đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập dân chủ, chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tháng Tám là bước khởi đầu dẫn tới chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đánh bại thực dân Pháp xâm lược, dẫn tới chiến thắng oanh liệt mùa xuân 1975 đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập,  tự do của tổ quốc, thống nhất nước nhà. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác- Lê-nin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đựợc áp dụng một cách sáng tạo, góp phần làm phong phú thêm lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, kinh nghiệm giải phóng dân tộc. Với thắng lợi của cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào và cách mạng Cam pu chia giành thắng lợi. Cách mạng tháng Tám đã chọc thủng một khâu trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi ngày càng phát triển mạnh mẽ sau Đại chiến thế giới thứ hai.

          Cách mạng tháng Tám thắng lợi nhanh chóng vì đã kết hợp chặt chẽ điều kiện chủ quan với điều kiện khách quan. Cách mạng được chính Đảng Mác- Lê nin lãnh đạo. Đảng  vạch ra đường lối chiến luợc, sách lược đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam qua các cuộc tổng diễn tập 1930-1933, 1936-1939, từng bước xây dựng lực lượng chính trị của cách mạng. Đến thời kỳ 1939-1945, Đảng  phân tích và dự báo một cách khoa học rằng phe phát xít nhất định thất bại, tạo thời cơ lớn cho ta giải phóng dân tộc. Do đó, Đảng ra sức lãnh đạo nhân dân xây dựng lực lượng, tiến hành khởi nghĩa từng phần và khi thời cơ đến phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là do Đảng biết kết hợp nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến. Cách mạng thắng lợi là do Đảng xây dựng được khối liên minh công nông, trên cơ sở đó xây dựng được Mặt trận đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù. Trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị, cách mạng tiến hành xây dựng luợc lượng vũ trang, xây dựng bạo lực cách mạng quần chúng, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, Cách mạng tháng Tám kết hợp hai hình thức đấu tranh nhưng đấu tranh chính trị của quần chúng là chủ yếu.

(Còn nữa)

CVL

Bạn đang đọc bài viết "Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 41)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn