Nguyễn Trãi và bản “Bình Ngô đại cáo”

binh-ngo-dai-cao-1697928640.jpg
 

                      

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội. Ông là một vị anh hùng dân tộc, văn võ song toàn. Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và luôn ở bên cạnh Lê Lợi, có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược nhưng cuối đời lại bị dèm pha và chết thảm khốc trong vụ án Lệ Chi viên (1442). Đến năm 1464 ông mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Đặc biệt, năm 1980, nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh, Nguyễn Trãi đã được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Ông là người đầu tiên của Việt Nam được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc công nhân danh hiệu này. Nguyễn Trãi đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú. Các tác phẩm tiêu biểu gồm có: “Bình Ngô đại cáo”, “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”, “Quân trung từ mệnh tập” ... Nguyễn Trãi được xem là “ngôi sao khuê” trên bầu trời văn học. Ông là người hội tụ ánh sáng của văn học các thế kỉ trước đó và mở đường, tỏa sáng cho con đường phát triển văn học dân tộc các thế kỉ sau. Thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện lòng yêu nước, thương dân kết hợp với lòng yêu đời một cách sâu sắc. Song hành với đó còn có cả những nỗi niềm bi phẫn, đau đời của một kẻ “lực bất tòng tâm”. Trong số rất nhiều tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo” được xem là một áng “thiên cổ hùng văn”.

          Cuối 1427 nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng quân Minh ở Chi Lăng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, buộc Vương Thông phải mở thành Đông Quan, chấp nhận rút quân về nước, công nhận chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ nước Đại Việt. Vào ngày 12 tháng Chạp năm Đinh Mùi (đầu năm 1428) Lê Lợi làm lễ tống tiễn Vương Thông về nước ở dinh Bồ Đề (Gia Lâm - Hà Nội). Như chúng ta đã biết, ngày 12 tháng Chạp năm Bính Tuất (đầu năm 1407), sau khi chiếm thành Đa Bang quân Minh ồ ạt vượt sông Hồng tiến vào thành Đông Quan và đặt ách đô hộ lên nhân dân Đại Việt. Hai mươi mốt năm sau, từ khi Hồ Quí Ly để mất nước đến khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thành công, Lê Lợi lại chọn chính ngày 12 tháng Chạp để tống tiễn kẻ thù xâm lược lại bắt đầu đi từ Đông Quan rồi vượt qua sông Hồng, khăn gói về nước. Lựa chọn ngày này phải chăng Lê Lợi có chủ ý: ngày 12 tháng Chạp là ngày dân tộc mang nỗi nhục mất nước và cũng chính ngày 12 tháng Chạp là ngày dân tộc đã rửa được nỗi nhục mất nước, đây là lời nhắc nhở, cảnh báo kẻ thù. Với tầm nhìn thông tuệ, Lê Lợi đã giao cho quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi soạn “Bình Ngô đại cáo”. Trong niềm vui chiến thắng hân hoan, thừa lệnh Lê Lợi, sau năm ngày, tức ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi, Nguyễn Trãi đã viết xong bản hùng văn “Bình Ngô đại cáo” và công bố trước toàn thể nhân dân cả nước. Bản hùng văn ấy đã thông báo cho toàn thể nhân dân biết tin cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh đã thành công, đất nước được độc lập, tự do. Bài cáo này đã được coi là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc.

          Lịch sử xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam dường như có một hiện tượng: mỗi một thời điểm lịch sử có tính chất bước ngoặt của dân tộc thường dẫn tới một tác phẩm văn học mang ý nghĩa, tầm vóc giá trị lịch sử tương ứng. Đó là, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long chúng ta có “Chiếu dời đô” (Thiên đô chiếu); cuộc chiến đấu chống quân xâm lược nhà Tống trên bờ sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã để lại “Sông núi nước Nam” (Nam quốc sơn hà); cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, Trần Quốc Tuấn viết “Hịch tướng sĩ” (Dự chu tì tướng hịch văn); khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” (Đại cáo bình Ngô) và sau này, khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Tuyên ngôn độc lập”. Do hoàn cảnh lịch sử riêng, văn hóa thời kỳ phong kiến (còn gọi là thời kì trung đại) của Việt Nam có một đặc điểm là tình trạng văn - sử - triết bất phâm. Do vậy, những tác phẩm văn học xuất sắc thường là những kết tinh vừa ghi dấu lịch sử vừa ghi dấu văn học. Phần lớn những tác phẩm đó là những tác phẩm văn học chức năng. “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng là tác phẩm văn học như thế.

          Như chúng ta đã biết, cáo là thể văn mà vua, chúa hoặc những người thủ lĩnh mới dùng. Họ dùng cáo để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp. “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng không nằm ngoài mục đích chung ấy. Sau chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi soạn “Bình Ngô đại cáo” để công bố rộng khắp cho toàn thể nhân dân được biết việc dẹp yên giặc Ngô (chỉ giặc Minh xâm lược). Đây không phải bài cáo bình thường mà là bài cáo có tính chất và tầm vóc quốc gia. Nó vừa là bản tổng kết quá trình kháng chiến chống quân Minh xâm lược vừa là bản tuyên ngôn độc lập dân tộc. Thiết nghĩ để hiểu bài cáo chúng ta cũng nên biết qua về nhan đề tác phẩm, về danh xưng bình Ngô. Tại sao chúng ta đánh giặc Minh mà Nguyễn Trãi không gọi là bình Minh mà lại gọi là bình Ngô. Chỗ này có hai cách hiểu. Thứ nhất, Nguyễn Trãi gọi giặc Minh là Ngô để ngụ ý quân xâm lược phương bắc nói chung. Bởi vào thế kỉ thứ ba trước công nguyên nhà Ngô thời Tam Quốc đã từng xâm lược, thống trị nước ta. Giặc Ngô đã từng thi hành nhiều chính sách tàn bạo đối với nhân dân ta. Nhân dân ta vô cùng căm ghét và gọi chúng là giặc Ngô. Cách gọi của Nguyễn Trãi như vậy sẽ gợi lên được sự khinh bỉ và lòng căm thù của nhân dân ta đối với giặc phương Bắc đã có từ ngàn xưa để rồi dồn lên đầu kẻ thù trước mắt là giặc Minh xâm lược. Thứ hai, gọi giặc Minh là Ngô nhằm ngụ ý gọi tên ông tổ nhà Minh, bởi Ngô là nơi khởi nghiệp và cũng là quê hương của Chu Nguyên Chương (người từng xưng là Ngô Vương, sau trở thành Minh Thái Tổ, người sáng lập vương triều Minh). Nhà Minh đã lợi dụng sự kiện Trần - Hồ ở nước ta để kéo quân sang xâm lược. Chúng đã thiết lập ách thống trị ác độc đối với dân tộc ta tới hơn 20 năm. Gọi giặc Minh là Ngô hẳn tác giả muốn nói đến gốc gác tổ tiên của bè lũ xâm lược tàn ác. Cả hai cách hiểu trên đều có ngụ ý thâm thuý sâu xa của người viết, thể hiện được tinh thần tự hào dân tộc, hào khí chiến thắng và có cả sự coi thường, căm thù bọn xâm lược.

          “Bình Ngô đại cáo” từ xưa đến nay được mọi người đánh giá là áng thiên cổ hùng văn (áng văn chương hùng tráng nghìn đời). Cũng giống như bố cục chung của thể loại cáo, bố cục bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng gồm có 4 phần, vừa mang đặc trưng cơ bản của thể cáo nói chung vừa thể hiện những sáng tạo riêng của tác giả. Phần mở đầu (từ đầu đến chỗ “chứng cứ còn ghi”): nêu luận đề chính nghĩa và chứng minh luận đề đó. Phần thứ hai (từ chỗ “vừa rồi” đến chỗ “Ai bảo thần dân chịu được”: bản cáo trạng tố cáo tội ác của giặc Minh. Phần thứ ba (từ chỗ “ta đây” đến “chưa thấy xưa nay”: kể lại quá trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày khởi đầu đầy gian khổ đến khi tổng phản công thắng lợi. Phần thứ tư (đoạn còn lại): tuyên bố kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập vững chắc của dân tộc và mở ra một kỉ nguyên mới cho đất nước

          Phần mở đầu của bài cáo từng được đưa vào sách giáo khoa cấp trung học cơ sở để học với tên gọi “Nước Đại Việt ta”. Nội dung của phần mở đầu là nêu luận đề chính nghĩa và làm sáng tỏ luận đề đó. Luận đề chính nghĩa mà Nguyễn Trãi nêu lên ở đây là tuyên ngôn về nhân nghĩa và độc lập dân tộc. Triển khai luận chính nghĩa ấy nhà thơ đã thể hiện theo một trật tự logic như sau: Hai câu đầu, nêu nguyên lí nhân nghĩa; tám câu tiếp: nêu chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt; sáu câu cuối: nói về sức mạnh của nguyên lí nhân nghĩa, của chân lí độc lập dân tộc.

          Trước tiên, mở đầu bài cáo, quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi đã đưa ra nguyên lí nhân nghĩa: “Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Thời đại lúc bấy giờ, ở Việt Nam và Trung Hoa, nguyên lí này như một ngọn đuốc soi đường. Khi ấy, các quốc gia phương Đông này hầu như chưa biết đến khái niệm tự do, bình đẳng như các quốc gia phương Tây. Ban đầu, khi chưa có khái niệm nhân nghĩa người ta mới chỉ biết đến công bằng và nhân đạo. Về sau này, đến thời Chiến quốc thì khái niệm nhân nghĩa xuất hiện. Hiểu về nội dung của nhân nghĩa đã có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tập trung lại thì vẫn thấy nó bao hàm hai ý chính: “yên dân” và “trừ bạo” (chống áp bức, bạo ngược để bảo vệ nhân dân). Đến Khổng Tử và Mạnh Tử, những bậc tiền bối của Nho gia (Khổng tử nói đến chữ nhân, Mạnh Tử nói đến chữa nghĩa) đã xây dựng nhân nghĩa thành một phạm trù đạo đức, nói về đạo lí, tình thương giữa con người với nhau. Chữ “nhân” có nội dung rất rộng, tuy nhiên hạt nhân của nó là chỉ sự tương thân tương ái giữa người với người. Trong chữ “nhân” có khuynh hướng trọng dân, đòi hỏi đối với dân phải khoan, huệ, nhân ái và phản đối chính trị hà khắc, bạo ngược đối với dân. Còn “nghĩa” là hợp với lẽ phải với đạo lí. Một trí thức Nho giáo như Nguyễn Trãi hẳn ông rất hiểu về những những cái lẽ nhân nghĩa như thế. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta lúc đó ta thấy nhà thơ không chỉ chắt lọc những yếu tố cơ bản, tích cực trong tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo mà còn vận dụng nó, gắn nó với cuộc kháng chiến chống xâm lăng của dân tộc nên nhân nghĩa còn bao hàm cả chống xâm lược. Nội dung này trong học thuyết Khổng Tử - Mạnh Tử và Nho gia không có. Do hoàn cảnh riêng của nước ta, thường xuyên phải chống xâm lược nên trong nội dung nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi mở rộng, không chỉ là quan hệ giữa người với người mà còn có cả mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa, có như vậy mới bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của kẻ địch, mới phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc xâm lược là phi nghĩa. Thực hiện việc làm nhân nghĩa ở thời điểm ấy, Nguyễn Trãi đã xác định nội dung và mục đích: chủ yếu để yên dân, trước nhất trừ bạo. Do vậy, “dân” trong câu thơ của Nguyễn Trãi là nhân dân Đại Việt còn “bạo” trong câu thơ là giặc Minh cướp nước Đại Việt. Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với chủ nghĩa yêu nước chống ngoại xâm, Nguyễn Trãi đã không ít lần vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa, phi nghĩa của kẻ thù: “Nước mày nhân việc nhà Hồ trái đạo, mượn cái tiếng thương dân đánh kẻ có tội, thật ra là việc làm bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, dân mọn các làng không được yên sống. Nhân nghĩa mà làm như thế ư? ...” (Gửi Phương Chính – Thư số 8) hay phần sau của bài cáo cũng có đoạn vạch tội: “Bại nhân nghĩa nát cả trời đất/ Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”. Như vậy, việc làm nhân nghĩa với đất nước ta lúc bấy giờ là phải diệt trừ giặc Minh để bảo vệ nhân dân. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nêu lên ở đây quả là có sức thuyết phục lớn đối với mọi người lúc đương thời. Chúng ta có thể thấy cách thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong bài cáo là một sự kết hợp giữa lí lẽ của học thuyết Nho giáo và thực tiễn đánh giặc bảo vệ đất nước của dân tộc. Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa thì sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Việt Nam cũng là một chân lý khách quan phù hợp với nguyên lí đó. Chính vì vậy sau khi nêu nguyên lí nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt:“Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác/ Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương/ Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Khẳng định sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt, Nguyễn Trãi đã đưa ra năm yếu tố để xác định. Đó là: nền văn hiến lâu đời; cương vực lãnh thổ; phong tục tập quán; truyền thống lịch sử; chế độ, chủ quyền. Đây là những yếu tố quan trọng, căn bản để tạo nên một quốc gia hoàn chỉnh. Có thể thấy quan niệm về quốc gia của Nguyễn Trãi ở đây là sự sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc của Lý Thường Kiệt trong bài thơ Sông núi nước Nam”. Nhưng so với quan niệm của Lý thường Kiệt thì quan niệm của Nguyễn Trãi toàn diện và sâu sắc hơn, thể hiện một quan niệm hoàn chỉnh về quốc gia dân tộc. Nói quan niệm của Nguyễn Trãi toàn diện hơn là bởi ý thức độc lập dân tộc trong Sông núi nước Nam” được xác định chủ yếu trên yếu tố lãnh thổ và chủ quyền, còn trong Bình Ngô đại cáo” đã có thêm một số yếu tố nữa; bổ sung thêm các yếu tố văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử. Nói quan niệm của Nguyễn Trãi sâu sắc hơn vì quan niệm về dân tộc Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến, truyền thống lịch sử là những yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc. Như đã biết, văn hiến theo nghĩa tiếng Hán là sách vở và người hiền tài, hiểu chung là nền văn hoá, văn minh của một đất nước. Xác định điều này là nhân tố cơ bản Nguyễn Trãi đã cho thấy mọi người thấy vai trò quan trọng của văn hiến đối với sự tồn vong mỗi dân tộc. Trong bất kì thời đại nào thì bản sắc văn hóa dân tộc vẫn là những nét riêng không thể hòa lẫn dân tộc này với dân tộc khác. Do đó trong bất kì hoàn cảnh lịch sử nào thì văn hiến cũng là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định tư cách tồn tại độc lập của một dân tộc. Đưa yếu tố văn hiến lên đầu và nhấn mạnh thêm bằng sự khẳng định những người tài giỏi của nước ta luôn có mặt ở mọi thời kì: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có” cũng là cách nhà thơ đập thẳng vào luận điệu coi thường dân ta, gọi dân ta là man di, mọi rợ của bọn phong kiến phương Bắc. Điều mà kẻ xâm lược luôn phủ định (Văn hiến nước Nam) thì chính lại là một thực tế, một sự tồn tại hiển nhiên với những sức mạnh của chân lí khách quan. Ngày nay hội nhập là xu thế phát triển chung của mọi thời đại nhưng chúng ta vẫn phải giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Có thể nói tư tưởng của Nguyễn Trãi dường như đi trước thời đại. Trong bài thơ “Sông núi nước Nam” Lý Thường Kiệt, khẳng định “Nam đế”  nhằm mục đích đối lập với “Bắc đế”, phủ nhận cái tư tưởng “Trời không có hai mặt trời, đất không có hai hoàng đế” của phong kiến phương Bắc. Mục đích đó vẫn chỉ là cách nói ngụ ý, gián tiếp; dù sao cũng chưa được phát biểu bằng cách so sánh trực tiếp như Nguyễn Trãi đã làm. Ta còn thấy Lý Thường Kiệt khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc còn phải dựa vào “thiên thư” nhưng với Nguyễn Trãi thì không. Ông dựa vào lịch sử. Có được một quan niệm về quốc gia, dân tộc hoàn chỉnh như Nguyễn Trãi phải chăng sau bốn thế kỉ giành độc lập, sau khi đã có những triều đại của Việt Nam tồn tại ngang hàng với những triều đại phong kiến phương Bắc thì quan Thừa chỉ mới có đủ tiền đề lịch sử để so sánh, chứng minh. Mặt khác dựa vào lịch sử để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc là bước tiến của tư tưởng thời đại, nhưng đồng thời cũng là tầm cao tư tưởng Nguyễn Trãi. Thể hiện quan điểm và khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt ấy Nguyễn Trãi đã sử dụng các câu văn biền ngẫu, phép liệt kê qua các dẫn chứng cụ thể hùng hồn để đối chiếu để so sánh, khẳng định các triều đại của Đại Việt không hề thua kém, sánh ngang hàng với các triều đại hùng mạnh của Trung Hoa. Hơn thế, việc đặt các triều đại của ta lên trên các triều đại của Trung Hoa cũng là một cách thể hiện sự tự tin, niềm tự hào dân tộc. Đọc kĩ chúng ta thấy tác giả đã rất khéo sử dụng các từ ngữ: “từ trước”, “vốn xưng”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác” để khẳng định tính chất hiển nhiên, vốn có, lâu đời của nước Đại Việt tồn tại độc lập, nhấn mạnh chân lí về sự độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt, có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn lịch sử. Bên cạnh cách lập luận ấy, chúng ta thấy âm điệu câu văn rất hào sảng. Giọng văn ấy cũng đã thể hiện một cách sâu sắc niềm tự hào dân tộc. Tám câu văn ngắn gọn nhưng đủ là một lời tuyên bố đanh thép: nước Đại Việt có một quá trình độc lập, có quốc hiệu, có một nền văn hoá riêng, chứ không phải là một quận, huyện của Trung Quốc, cũng không phải là một bộ lạc man rợ. Chúng ta từng biết, trong hàng nghìn năm Bắc thuộc, giai cấp phong kiến Trung Quốc đã thi hành nhiều chính sách rất thâm hiểm nhằm đồng hoá dân ta với dân Trung Quốc. Chúng bắt dân ta ăn mặc kiểu Trung Quốc, để tóc kiểu Trung Quốc, phụ nữ phải bó chân bó như kiểu phụ nữ Trung Quốc hòng làm cho ý thức dân tộc của chúng ta bị tiêu vong, nhằm xóa bỏ văn hóa của người Việt. Song chúng đã nhầm, dân tộc ta vẫn tồn tại bằng chính sự ý thức về lịch sử, ý thức về văn hiến, bằng sức mạnh của lòng nhân nghĩa, bằng sức mạnh của ý thức độc lập dân tộc. Những sức mạnh kì diệu ấy tiếp tục được Nguyễn Trãi làm sáng tỏ ở phần cuối của đoạn trích: “Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại,/ Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,/ Cửa Hàm Tử bắt sống toa đô,/ Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã./ Việc xưa xem xét/ Chứng cớ còn ghi”.

Theo dõi văn bản, ta có thể thấy nhà thơ đã chuyển đoạn văn bằng từ ngữ chuyển tiếp “Vậy nên” làm cho người đọc thấy giữa các đoạn văn có mối quan hệ hệ nhân quả với nhau: ta nhân nghĩa nên ta chiến thắng, giặc phi nghĩa nên thất baị. Mối quan hệ này tạo ra sự lập luận chặt chẽ cho toàn đoạn trích nói riêng và văn bản nói chung. Sức mạnh của lòng nhân nghĩa, của tinh thần độc lập dân tộc đã được Nguyễn Trãi chứng minh bằng chính lịch sử. Kẻ thù phi nghĩa xâm lược nước ta đã bị thất bại thảm hại: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô, Ô Mã Nhi bị giết, bị bắt sống. Ngược lại dân tộc ta còn đó, vang mãi những chiến thắng oanh liệt của Hàm Tử, Bạch Đằng, những chiến công hào hùng của Ngô Quyền, của Lý Thường Kiệt, của các tướng nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên. Nguyễn Trãi đã đưa ra những dẫn chứng rất tiêu biểu và trình bày một cách hùng hồn theo trình tự thời gian một cách rất linh hoạt nên vừa tạo nên âm vang vừa thể hiện được hùng khí của dân tộc lôi cuốn lòng người, thức dậy niềm tự hào dân tộc trong lòng người đọc. Đặc biệt, hai câu cuối của đoạn trích đột nhiên ngắn lại, hơi văn trầm xuống và có phần đanh chắc. Lối hành văn này như thể nhà thơ muốn dồn nén, đúc kết, nhắn nhủ và khẳng định một cách rõ ràng về bằng chứng lịch sử hết sức thuyết phục nhằm thể hiện một lần nữa cái sức mạnh của chân lí độc lập dân tộc, của chính nghĩa. Nó cũng như là một sự cảnh báo đối với những kẻ thù còn đang muốn lăm le xâm lược.

“Bình Ngô đại cáo” được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai trong lịch sử dân tộc ta. Có thể nói nội dung cốt lõi, tinh thần và cả lời văn của bản tuyên ngôn đó được gói gọn trong phần mở đầu. Vì, thứ nhất về nội dung: sau khi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, tác giả nói về sự tồn tại độc lập, chủ quyền của nước Đại Việt như một chân lí khách quan hiển nhiên, vốn có, lâu đời; thứ hai về nghệ thuật: nhà thơ đã thể hiện rất thành công nghệ thuật hành văn chính luận với những lời lẽ, giọng điệu, cách lập luận chặt chẽ, khúc chiết. Phần mở đầu này cũng đã nêu lên một nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.

Phần hai của bài cáo là bản cáo trạng đanh thép vạch trần tội ác của kẻ thù xâm lược cũng như nói lên nỗi cùng cực của nhân dân ta dưới ách đô hộ của giặc Minh trong suốt hai mươi năm trường. Bằng tấm lòng thương cảm, xót xa đau đớn của người dân mất nước và sự căm giận kẻ thù man rợ sâu sắc, đoạn cáo trạng chỉ có 12 cặp tứ lục đối nhau theo thể văn biền ngẫu nhưng Nguyễn Trãi đã vạch trần được đầy đủ bộ mặt thật với những âm mưu, thủ đoạn và tội ác tàn độc của quân Minh xâm lược. Trước tiên nhà thơ chỉ ra luận điệu giả dối của giặc Minh khi lấy cớ “phù Trần diệt Hồ” để cướp nước ta: “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ Để trong nước lòng dân oán hận/ Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa/ Bọn gian tà bán nước cầu vinh/”. Tác giả dịch bài cáo sử dụng từ “nhân”, “thừa cơ” đã lột tả chính xác bộ mặt giả nhân giả nghĩa cùng thủ đoạn xảo quyệt và dã tâm xâm lược Đại Việt của nhà Minh và bọn tay sai bán nước. Sau khi vạch trần luận điệu “phù Trần diệt Hồ” đầy giả dối của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã liệt kê các tội ác man rợ cùng chế độ cai trị tàn bạo, tham lam của kẻ giặc với các chính sách đã thi hành đối với nhân dân ta. Về tội ác, có lẽ trên mặt đất này khó có nơi nào có những hình phạt ác độc hơn ở Đại Việt được nữa: “Nướng dân đen dưới ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”. Để ý kỹ chỗ này ta sẽ thấy sự sắc xảo và linh hoạt của nhà thơ. Khi vạch trần sự xảo quyệt của nhà Minh mượn cớ để gây họa Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc nhưng khi kể về tội ác của chúng nhà thơ lại đứng trên lập trường nhân nghĩa. Lựa chọn hai hình ảnh “dân đen”, “con đỏ” làm đối tượng miêu tả, Nguyễn Trãi muốn cho người đọc thấy được tội ác tận cùng và sự bất nhân đến cao độ của bọn cướp nước. Những người dân bình thường, những đứa trẻ vừa sinh là các đối tượng mà các nhà cầm quyền, những người lớn phải quan tâm, chăm sóc. Ở đây thì ngược lại. Những đối tượng lẽ ra được chăm sóc, được nâng niu trở thành đối tượng bị khủng bố, hủy diệt bằng những hành vi tàn bạo, man rợ. Sử đương thời có chép lại rằng: kẻ giặc rút ruột người treo lên cây, nấu thịt người lấy dầu, phanh thây phụ nữ có thai, nướng người sống làm trò chơi. Có thể thấy với hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ (chỉ người dân trăm họ vô tội) vừa mang tính tả thực, bản cáo trạng đã miêu tả chân thực những tội ác ngút trời đáng ngàn đời nguyền rủa của giặc Minh.

          Không chỉ vạch trần tội ác man rợ, Nguyễn Trãi còn chỉ ra chính sách cai trị của nhà Minh ở nước ta cũng không kém phần tàn độc: “Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”, “Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc”, “Kẻ bị đem vào núi sâu đãi cát tìm vàng”, “Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng”, “Bẫy hươu đen nơi nơi cạn bẫy”, “Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa”, “Nặng nề những nỗi phu phen”. Không kể lể dài dòng. Chỉ bấy nhiêu thôi bản cáo trạng cũng đã cho người đọc thấy được sự tàn bạo, vô nhân tính trong hành động vơ vét của giặc Minh. Đúng là lòng tham không cùng. Và có lẽ khi đọc bản thống kê ấy người ta sẽ thấy đằng sau lòng tham của chúng là biết bao số phận thê thảm. Kẻ phải làm mồi cho “cá mật”, “thuồng luồng” người thì phải bỏ mình nơi “rừng sâu nước độc”. May mắn hơn những người ở nhà còn được sống thì cũng rơi vào cái cảnh “Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng”. Còn có nỗi đau nào hơn? Những chính sách cai trị vơ vét tàn độc ấy không phải chỉ gây chết chóc, tang thương với con người mà còn hủy diệt cả nền sản xuất “tan tác cả nghề canh cửi”, tàn phá môi trường “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”.

          Trái ngược với nỗi đau khổ đến cùng cực của người dân nhà thơ cũng khắc họa thành công bộ mặt của bọn ăn cướp. Chúng hiện lên với bộ mặt người dạ quỷ. Những kẻ luôn vỗ ngực xưng là “cha mẹ” dân nhưng tham lam vô độ và lạnh lùng, vô cảm đến vô cực trước bao nỗi đau đớn khốn cùng của nhân dân: “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Chắc hẳn, không còn nét họa nào hay hơn được nữa. Đúng là bộ mặt của cái lũ “Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế/ Gây binh kết oán trải hai mươi năm”. Sự thấu hiểu tận cùng với những nỗi đau mà người dân từng phải gánh chịu kết hợp với nỗi hờn căm đến cao độ khi phải chứng kiến tội ác chồng chất của kẻ thù trong suốt hai mươi năm, tâm trạng Nguyễn Trãi dường như không kìm nén được nên đã trào dâng ra đầu ngọn bút mà kết án chúng: “Bại nhân nghĩa nát cả trời đất”. Tội ác ấy đến “Trúc Nam Sơn không ghi hết tội”, “Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Nguyễn Trãi đã lấy cái vô cùng, vô hạn của tự nhiên để thể hiện cái vô cùng, vô hạn của tội ác. Tội ác ấy ngút trời khiến trời không dung, đất không tha, thần người đều căm hận.

          Hẳn là, đọc bản cáo trạng này ai chẳng cảm thương cho số phận người dân và uất hận, sục sôi trước muôn ngàn tội ác tàn bạo, dã man của kẻ thù xâm lược. Với Nguyễn Trãi, người trực tiếp chứng kiến và khắc bia căm thù này hẳn sẽ phải thương và căm gấp bội. Bằng những chứng cứ cụ thể rõ ràng ấy, với bản cáo trạng đanh thép này nhà thơ đã đứng về phía những người dân vô tội để tố cáo tội ác trời không dung đất không tha của giặc Minh. Chỉ bấy nhiêu thôi bài cáo không chỉ là bản cáo trạng mà còn chứa đựng những yếu tố cơ bản của bản tuyên ngôn về nhân quyền. Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác hủy diệt con người, cây cỏ, muông thú của quan quân xâm lược nhà Minh và đòi quyền sống cho người dân Đại Việt. Đây là giá trị nhân đạo to lớn của tác và cũng là một đóng góp không nhỏ của Nguyễn Trãi về vấn đề nhân quyền.

Phần thứ ba của bài cáo tựa như bản tổng kết kể về quá trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày đầu dẫy binh đầy gian khổ cho đến khi tổng phản công và giành thắng lợi hoàn toàn. Đây là đoạn văn dài và hào sảng nhất của bài cáo. Cụ thể, phần này có 47 cặp đối theo thể biền ngẫu; trong đó được chia thành hai mạch cảm xúc khá rõ. Mạch thứ nhất nói về Lê Lợi và buổi đầu khởi nghĩa đầy gian khó (gồm 15 cặp đối). Mạch thứ hai nói về cuộc phản công và thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn (gồm 32 cặp đối).

Ở mạch cảm xúc thứ nhất, với giọng văn vừa hào sảng vừa thống thiết nhà thơ đã thành công trong việc dựng lên được một hình tượng cao đẹp về người anh hùng dân tộc Lê Lợi. Mở đầu mạch cảm xúc Nguyễn Trãi dùng đại từ tự xưng, theo phương thức tự giới thiệu “Ta đây”. Với lời tự xưng này Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được sự gần gũi và khiêm nhường của thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn (không xưng trẫm). Sau lời tự xưng là những dãi bày, tự bạch rất đoàng hoàng, dõng dạc nhưng cũng rất gan ruột, đầy uất ức, căm phẫn, đau đớn cùng biết bao suy nghĩ, trăn trở, ý chí, nghị lực và khát khao, ước muốn của Lê Lợi trong những tháng ngày phải “nương mình” ở chốn hoang dã Lam Sơn: “Ngẫm thù lớn há đội trời chung,/ Căm giặc nước thề không cùng sống”, “Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời,/ Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối”, “Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,/ Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ”, “Những trằn trọc trong cơn mộng mị,/ Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”. Những câu văn thống thiết đó như thể được trút ra từ trong tâm can Lê Lợi. Lê Lợi đã đau cùng nỗi đau của bách tính cho nên mối thù giặc Minh tàn bạo cướp nước cũng chính là mối thù của chính ông. Một mối thù không “đội trời chung”, “thề không cùng sống”. Mối thù ấy quả là mang một sứ mệnh cao cả. Đọc đoạn cáo này ta bỗng nhớ đến Trần Quốc Tuấn cùng với nỗi đau “quốc thể” trước nạn “quốc nhục”. Những nỗi niềm của Lê Lợi ở đây khác gì nỗi lòng của Trần Quốc Tuấn khi phải sống trong cảnh “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Đó là tâm trạng đau đớn khi tổ quốc bị ngoại xâm giày xéo cùng với ý chí quyết tâm xả thân giết giặc báo đền nợ nước: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Tâm trạng ấy là biểu hiện của một nhân cách lớn. Một nhân cách mà luôn có một ý thức cao độ về tự trọng dân tộc, về ý thức về trách nhiệm của công dân trước vận mệnh nguy khó của đất nước.

Hình tượng cao đẹp của người anh hùng dân tộc Lê Lợi không phải chỉ được tái hiện qua những lời dãi bày, tự bạch mà còn được đồng hiện với những lời kể về hành trình của buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa đầy gian khổ, khó khăn. Những ngày đầu khởi nghĩa của Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đã gặp muôn ngàn những gian nguy: “Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/ Chính lúc quân thù đang mạnh”. Không trình bày dài dòng, Nguyễn Trãi đã lựa chọn hai khó khăn tiêu biểu nhất để thể hiện cái tình thế “ngàn cân treo đầu sợi tóc” của nghĩa quân: lương thực và con người. Như ta đã biết, trong chiến tranh yếu tố con người là quan trọng nhất. Yếu tố con người quyết định sự thành hay bại của cuộc chiến. Để làm nổi bật hình ảnh người anh hùng Lê Lợi cũng như gian khó của cuộc khởi nghĩa ở buổi ban đầu Nguyễn Trãi đã tập trung khắc họa về những khó khăn con người. Về yếu tố con người, chủ tướng Lê Lợi không chỉ thiếu quân về số lượng “quân không một đội” mà còn thiếu cả những nhân tài giúp việc: “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu”, “Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần/ Nơi duy ác hiếm người bàn bạc”. Nguyễn Trãi đã đặt Lê lợi trong hoàn cảnh gian nan này nhằm tái hiện cho được đầy đủ ý chí, phẩm chất, tài năng của người anh hùng. Đọc phần hai của bài cáo người ta dễ dàng nhận ra ở Lê Lợi hội tụ đầy đủ ý chí, phẩm chất, tài năng của một minh quân. Càng gian khổ, ý chí cứu nước của Lê Lợi càng sục sôi, quyết liệt: “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông”; càng khó khăn, ý chí tự lực tự cường của Lê Lợi càng phát huy cao độ: “Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối”; càng nguy nan, phẩm chất nhẫn nại của Lê Lợi càng được tôi luyện, thử thách: “Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả”. Chính nhờ những đức tính đó mà Lê Lợi đã thành công trong việc tập hợp và quy tụ nhân tố con người, từng bước vượt qua được các khó khăn: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Chủ tướng của nghĩa quân Lam Sơn đã tập hợp được quần chúng nhân dân bên mình cùng đồng cam cộng khổ để đánh giặc cứu nước. Chưa đủ, tài năng xuất chúng hơn người ở Lê Lợi là đã lựa chọn, quyết định được chiến lược và chiến thuật đánh giặc phù hợp với thực tế. Đó là “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/ Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”. Vậy đấy, Nguyễn Trãi đã thể hiện và tái hiện cho người đọc thấy rõ tấm lòng và tầm vóc của Lê Lợi thật sâu sắc.

Có thể nói, cảm hứng chủ đạo và xuyên suốt trong mạch cảm xúc thứ nhất là hình tượng trữ tình đẹp đẽ về người anh hùng dân tộc Lê lợi, linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ở mạch cảm xúc này dù có tái hiện những khó khăn, gian khổ của nghĩa quân Lam Sơn trong buổi đầu khởi nghĩa thì cũng không tách khỏi và để làm nổi bật vai trò của người chèo lái con thuyền khởi nghĩa. Bởi thế, trong gian nguy, ta lại thấy người anh hùng hiện lên càng đẹp đẽ, xuất chúng.

Ở mạch cảm xúc thứ hai, giọng văn của bài cáo chuyển sang sảng khoái, hả hê, tự hào khi kể về những chiến thắng oanh liệt của quân ta và những thảm bại của giặc Minh. Nó giống như một bản hùng ca bất tử ngợi ca những chiến thắng của đoàn quân vệ quốc. Trước khi tấu lên khúc nhạc “đường vinh quang xây xác quân thù” để chuyển tiếp từ giai đoạn khó khăn, phải dựa vào núi rừng sang phản công như vũ bão, tác giả bài cáo đã không quên nhắc lại tư tưởng nhân nghĩa đã nêu ở phần đầu để làm kim chỉ nam cho mọi hành động: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Nếu như phần thứ ba của bài cáo được viết dài nhất; có giọng điệu bao trùm là hào sảng nhất thì đó chính mạch cảm xúc thứ hai này. Với 32 cặp đối, Nguyễn Trãi miêu tả kỹ càng để cho người đọc có thể hình dung được diễn biến của cuộc kháng chiến với những không gian, thời gian và sự việc, con người rất cụ thể. Nhà thơ đã liệt kê và miêu tả chi tiết các trận đánh cùng những chiến thắng ở Bồ Đằng, Trà Lân, Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động, Chi Lăng, Mã An, Lạng Giang, Lạng Sơn, Xương Giang, Bình Than, Lê Hoa, Cần Trạm, Lãnh Câu, Đan Xá. Đọc phần cáo này người đọc sẽ thấy vui sướng, hả hê, thích thú bởi quân ta liên tiếp chiến thắng và kẻ thù phải trả giá đắt cho những hành động bất nhân, bất nghĩa. Trong cảm hứng say sưa ấy người ta hình dung chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo giống như một vết dầu loang. Từ tâm điểm là rừng núi Lam Sơn, nghĩa quân của Lê Lợi đã nhanh chóng trưởng thành vững mạnh, bách chiến bách thắng và chiến thắng loang nhanh ra toàn quốc để giang sơn thu về một mối. Hình như những chiến thắng của quân ta vừa xong, vẫn đang “nóng hổi” nên khi soạn “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi còn như đang trong “men say” của những tin thắng trận dồn dập đưa về. Bởi thế người đọc có cảm nhận từ nhịp điệu đến thanh âm; từ câu chữ cho đến sắc màu, hình tượng của phần phản công đều được viết bằng ngòi bút và cảm hứng của nghệ thuật anh hùng ca (sử thi). Nhà thơ đã dùng những hình tượng kỳ vĩ của thiên nhiên để làm thước đo và diễn tả sức mạnh của quân ta cũng như các thất bại của kẻ địch. Chiến thắng và sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn đã được nhà thơ thể hiện bằng các hình ảnh phi thường, ngang tầm trời đất: “sấm vang chớp giật”, “trúc trẻ cho bay”, “Gươm mài đá, đá núi phải mòn/ Voi uống nước nước sông phải cạn”, “Đánh một trận sạch không kình ngạc/ Đánh hai trận tan tác chim muông”, “Nổi gió to trút sạch lá khô/ Thông tổ kiến phá toang đê vỡ” khiến cho “sắc phong vân phải đổi”, “ánh nhật nguyệt phải mờ”. Thất bại thảm hại của kẻ thù cũng được diễn tả bằng các hình ảnh ghê sợ chưa từng thấy: “máu chảy thành sông tanh hôi vạn dặm”, “máu trôi đỏ nước”, máu chảy trôi chày” “thây chất đầy nội nhơ để ngàn năm”, “thây chất đầy đường, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc”, “thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen”.

          Tương ứng với kết quả của những trận đánh là hình tượng tướng sĩ đôi bên. Với những chiến thắng vang dội, oanh liệt của quân ta như thế nên không cần nói nhiều chỉ với vài dòng ngắn gọn “Sĩ khí đã hăng/ Quân thanh càng mạnh”, “ta đây mưu phạt tâm công”, “Sĩ tốt kén người hùng hổ/ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi đã gợi lên trong trí tưởng tượng của người đọc hình ảnh hùng mạnh của nghĩa quân Lam Sơn và sự đa mưu, túc trí, chủ động, sáng suốt của chủ tướng Lê Lợi và tướng lĩnh. Bởi thế chiến thắng của nghĩa quân như vũ bão, không gì có thể ngăn cản nổi là lẽ hiển nhiên. Trái lại với sự lớn mạnh và chiến thắng to lớn của nghĩa quân Lam Sơn là sự thất bại thảm hại và bộ mặt hèn nhát “thay lòng đổi dạ”, “chuốc tội gây oan”, “để cười cho tất cả thế gian” của quân tướng nhà Minh. Ở nội dung này Nguyễn Trãi đã miêu tả tường tận, rõ ràng với những không gian và thời gian chi tiết, cụ thể: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/ Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”, “Ninh Kiều máu chảy thành sông”, “Tốt Động thây chất đầy nội”, “Trần Hiệp phải bêu đầu”, “Lý Lượng cũng đành bỏ mạng”, “Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy”, “Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng”, “Giặc đã trí cùng lực kiệt”, “Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế”, “Ngày Hai mươi, Trận mã An, Liễu Thăng cụt đầu”, “Ngày hăm lăm, Bá tước Lương Minh bại trận tử vong”, “Ngày hăm tám. Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn” “giặc quay giáo đánh nhau”, “Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội”, “Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng”, “lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường”, “Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước”, “Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật”, “Thua quân ta ở Cần Trạm quân Mộc Thạch xéo lên nhau để chạy thoát thân”, “Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày” (chày là cái mộc, cái khiên của binh lính), “Thành Đán Xá thây chất thành núi”, “Quân giặc các thành khốn đốn cởi giáp ra hàng”, “Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”, “Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc”, “Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngụa về đến nước mà vẫn tim đập chân run”. Và có lẽ cái cảm hứng thừa thắng của nghĩa quân Lam Sơn vẫn còn hừng hực như triều dâng thác đổ ấy mà nhà thơ đã gọi thẳng vua Tuyên Tông nhà Minh (kẻ chủ mưu cướp Đại Việt) là thằng nhãi con “Thằng nhãi con Tuyên Đức” và gọi tướng giặc là đồ nhút nhát “Đồ nhút nhát Thạch Thăng”. Cách gọi này thể hiện sự coi thường và kinh bỉ đến cao độ. Câu văn đúng thực là hào sảng. Thái độ này hẳn là hiếm có trong lịch sử.

Có thể nói, với biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng một cách rất hiệu quả cùng với âm vang thắng trận vẫn đương còn hừng hực trong từng hơi văn, Nguyễn Trãi đã dựng lên trong bài cáo và tái hiện một cách chi tiết, rõ ràng với những con người và sự việc cụ thể để người đọc có thể hình dung được bức tranh toàn cảnh của cuộc khởi nghĩa. Bởi thế ở mạch cảm xúc thứ hai của phần ba bài cáo đã miêu tả cuộc khởi nghĩa như những thước phim tư liệu rất hoành tráng, trung thực. Ở đây sự ngông cuồng, hống hách, vênh vang, nghênh ngang đầy ngạo mạn của quân tướng nhà Minh đã biến mất mà thay vào đó là những thảm bại không cùng, đặc biệt là bộ mặt hèn nhát của những quân tướng thiên triều nhà Minh hiện lên vô cùng hổ thẹn, không thể có nước nào gột rửa cho hết được sự nhơ nhốc, đớn hèn. Đọc phần này chúng ta sẽ thấy mỗi tên tướng giặc là một vẻ, chẳng ai giống ai, nhưng chúng có một điểm giống nhau là tham sống đến hèn nhát, nhục nhã.  

          Kẻ thù càng thảm bại thì Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn càng rực rỡ. Đứng trên một tầm cao vòi vọi, hơn hẳn kẻ thù, không tận thu, tận diệt một cách bất nhân như thiên triều nhà Minh cho nên dù chiến thắng nhưng ta không trả thù kẻ địch một cách tầm thường. Trái lại, trên lập trường nhân nghĩa quân ta vẫn đối xử vô cùng nhân đạo “thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh” với đội quân bại trận đớn hèn nhà Minh: “Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc”, “Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngụa về đến nước mà vẫn tim đập chân run”. Hẳn là đây cũng là những bài học nhớ đời cho những kẻ sống sót; cho bọn giặc cuồng Minh bất nghĩa.

          Phần thứ tư của bài cáo là lời tuyên bố kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập vững chắc của dân tộc và mở ra một kỉ nguyên mới cho đất nước. Đoạn cáo ở phần này cơ bản ngắn gọn với các câu văn biền ngẫu giàu hình ảnh. Ở đây nhà thơ vẫn tiếp tục sử dụng các từ ngữ mang triều kích vô cùng của không gian, thời gian như ở những phần trước: giang sơn, càn khôn, nhật nguyệt, muôn thủa, ngàn thu, ngàn năm, bốn phương, biển cả …; đồng thời kết hợp với việc tạo ra những âm điệu trầm hùng, trang trọng trong hơi văn nên người đọc vừa thấy được cái không khí trang nghiêm vừa thấy được niềm vui mừng, phấn khởi, tin tưởng, phơi phới lạc quan. Đặc biệt ở phần thứ tư này Nguyễn Trãi đã nhắc tới sự bền vững của đất nước hai lần: “Xã tắc từ đây bền vững”, “Muôn thủa nền thái bình vững chắc”; nhắc đến sự thay đổi bốn lần: “Giang Sơn từ đây đổi mới’, “Kiền khôn bĩ rồi lại thái”, “Nhật nguyệt hối rồi lại minh”, “Ngàn thu vết nhục nhã sạch lau” cùng với một tiếng lòng biết ơn, cảm tạ trời đất, tổ tiên đã linh thiêng phù hộ: “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy”. Tất cả những điều này như mở ra trước mắt người đọc một bức tranh tươi sáng; một viễn cảnh về tương lai huy hoàng; đồng thời cũng tạo được niềm tin cho nhân dân Đại Việt khi đất nước với vận hội mới đang bày ra trước mắt. Quả đúng là vậy, đất nước Đại Việt dưới thời nhà Lê, nhất là thời Lê Thánh Tông đã rất phát triển, chưa từng thấy trong lịch sử thời phong kiến. Chẳng thế mà ca dao Việt Nam đã hết lời ngợi ca giai đoạn thịnh trị này: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/ Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”.

          Tính đến nay, “Bình Ngô đại cáo” xuất hiện đã 595 năm, đọc lại bài cáo chúng ta vẫn không khỏi cảm phục ngòi bút xuất thần của “Ức Trai tâm thượng quang khuê Tảo”. Nó xứng đáng được ngợi ca là áng thiên cổ hùng văn. Một văn bản chính trị xuất sắc. Nó vừa là bản cáo trạng đanh thép dành cho bọn giặc Minh xâm lược tàn bạo và bè lũ tay sai bán nước vừa là bản tổng kết ghi lại một chặng đường đau thương nhưng vô cùng hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Với những câu văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn như triều dâng thác đổ bài cáo không chỉ tái hiện được không khí của thời đại với những trận đánh long trời lở đất khiến quân thù phải bạt vía kinh hoàng, chấp nhận thất bại nhục nhã ê chề mà còn thể hiện được tầm vóc và khí phách của đất nước Đại Việt trước ngoại xâm: yêu nước, bất khuất, anh dũng, kiên cường và cũng rất mực nhân ái, yêu chuộng hòa bình. Đến nay những giá trị của bài cáo vẫn còn giữ nguyên giá trị. Bản hùng ca ấy vẫn tiếp tục bồi dưỡng cho người đọc ý thức về chủ quyền lãnh thổ, ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước, lòng tự hào và tinh thần tự tôn dân tộc.

____________________________________

 *Trường THCS Nguyễn Văn Huyên huyện Hoài Đức,Thành phố Hà Nội