Pa Ven trong tôi

Vào học cấp 2, tôi đã được thầy giáo dạy văn cho tôi mượn và hướng dẫn tôi đọc một số tác phẩm văn học trong nước và của cả nước ngoài. Trong đó, có cuốn: Thép đã tôi thế đấy của Liên xô trước đây, đã dịch ra tiếng Việt.

Nhưng vừa học hết lớp 7/10. Tôi đã xung phong vào bộ đội. Suốt chặng đường hành quân, hình ảnh người thanh niên cộng sản Còm Xô Môn luôn sống động trong tôi. Động viên thôi thúc tôi vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Nhất là vào những trận chiến đấu căng thẳng. Ngoài những lần tôi bị tập kích bất ngờ. Đạn cực nhanh của địch xoèn xoẹt, ví vút như gió vụt qua đầu hoặc nó tránh tôi bên phải, bên trái như có phép linh thiêng xua đuổi đạn cho tôi. Cũng có thể địch sợ hãi, bắn kém. Trong bảy lần bị thương, tôi nhớ nhất hai lần nguy hại đến gần chết.

b1dsn1a-1692063832.jpg

Tác giả Đặng Sỹ Ngọc (bên phải).

 

Đó là trận ngày 06/5/1972*. Trời Quảng Trị trong xanh không một gợn mây, nắng, nóng dữ rồi trút xuống trận địa. Là đại đội phó, tôi chỉ huy từ 9h đến 11h. Có nhiều máy bay địch nhưng nó hoạt động xa. Tôi bàn giao phiên trực cho anh Thắng(2*), B trưởng quê Hương Khê Hà Tĩnh, vào hầm nghỉ, nhưng tôi nghe tiếng động cơ cứ lúc một gần. Không yên tâm, tôi quay lại cửa hầm cầm cờ hô, các khẩu đội ấn đạn. Bám sát mục tiêu: Bắn... Ba khẩu đội không bắn được vì nắng chói không bắt được mục tiêu. Chỉ có khẩu đội 3 của đồng chí A trưởng Nguyễn Văn Học (3*) quê Thái Bình bắn được điểm xạ vừa. Bom của máy bay F4 ném vào trận địa. Một quả nổ cách cửa hầm tôi 3m và một quả phía sau cách 7m. Trong hầm có trung úy, chính trị viên Nguyễn Văn Chiến và đồng chí liên lạc Nguyễn Văn Khôi (hai anh em cùng quê Thái Bình)(4*). Trong lòng đất, tôi nghe anh Khôi kêu lớn: "cứu với, cứu với đại đội ơi, cứu với - Anh nói rõ to nhiều lần. Còn anh Chiến, một lúc sau mới nói: "không biết đại đội có ai việc gì không? Chẳng hiểu tại sao lúc này hình ảnh Pa -ven của Thép đã tôi đã hiện về, giục tôi nói cho hai người cùng nghe “gọi lắm, chỉ nguy hại, hãy tìm cách tự cứu lấy mình trước.... Chúng ta sẽ sống!".

Nói vậy thôi, chứ đất giữ chặt cơ thể. Không thể cử động nhúc nhích được. Trong lòng đất, chúng tôi vẫn nghe bom rung động thình thịch. Người tôi bắt đầu toát mồ hôi rồi lịm dần. Chẳng rõ bao lâu sau, cả đại đội đã tập trung đào bới đưa chúng tôi rời lòng đất. Thấy tôi còn thở, y tá đại đội tiêm trợ tim, cùng nhau đưa tôi lên ô tô. Nổ máy chạy ngay ra phía Bắc sông bến Hải lúc chiều trời còn sáng. Cả Quảng Trị còn ầm ào tiếng súng. Tới Vĩnh chấp, nơi trạm xá của sư đoàn đóng Quân. Điều đặc biệt là anh Chiến và đồng chí liên lạc vẫn bình thường, ở lại cũng đơn vị. Không có vết thương, tôi chỉ bị sức ép toàn thân. Điều trị chừng 10 ngày, tôi xin trạm xá về chiến đấu cùng đơn vị.

Lần thứ hai là 4 giờ sáng ngày 20/7/1972 cả đại đội đang khẩn trương làm cộng sự triển khai đội hình chiến đấu ở sân bay Ái Tử. Sát với Thành Cổ Quảng Trị. Bom B52 lại trút xuống đúng đội hình. Một quả sát thương nổ cách hầm tôi chừng 5m. Hai chiến sĩ bên tôi là Trần Tất Ngọ quê ngoại Thành Nam Định và Đặng Văn Nga quê Bắc Giang hy sinh tại chỗ(5*), không nói kịp câu nào! Tôi bị thương nặng. Chẳng rõ bao lâu, khi đồng đội đến gọi “ anh Ngọc ơi! tôi mới tỉnh. Tôi tự lật ngửa mình, nhưng không nhúc nhích mới biết mình đã bị thương. Tôi nói yếu ớt với anh em: “hãy kiểm tra hai đồng chí bên phải tôi đi, vì họ gần bom hơn!..

Mọi người trả lời “Hai đồng chí đã hy sinh! chỉ còn anh thôi. Họ khẩn trương đỡ tôi vào võng - y tá Đức, rửa vết thương băng bó, tiêm thuốc …Rồi nhanh chóng thay nhau khiêng tôi đến trạm phẫu thuật mặt trận 204 cách chừng 5 km, qua đồi, qua núi. Dọc đường pháo địch vẫn rít đuổi trên đầu. Tôi mê rồi lại tỉnh, lại mê. Tôi nghĩ mình yếu lắm. Đau thương phải xa tình cảm đồng đội, từng cùng nhau gắn bó chia sẻ cay đắng ngọt bùi để xây dựng đơn vị được tuyên dương tập thể đại đội anh hùng các lực lượng vũ trang. Tôi muốn nói vài lời, nhận xét công lao từng người vì tôi là chi ủy viên của chi bộ. Với anh em đang vất vả vì mình trước lúc từ biệt. Những miệng cứ mấp máy không nói được thành câu.

Đến trạm phẩu, họ cầm tay, thơm vào mặt xúc động dặn dò “cố gắng điều trị cho khỏi,….. Đến ngày thống nhất đất nước, tới nhà thăm nhau anh Ngọc nhé!

Tôi cổ tươi vui, gật gật, ừ ừ như muốn động viên cảm ơn các đồng chí và nói: (Pa Ven này sẽ sống), chúc các đồng chí nêu cao truyền thống, chiến đấu lập công.... Luôn nhớ nhau nhé !, rồi họ trở về đơn vị ngay.

Trạm phẫu 204, thấy tôi có vết thương nặng. Các y bác sĩ lập tức mổ cấp cứu. Họ đẩy thuốc tê vào xương cùng. Nhưng vẫn đau - tôi vẫn thấy thương binh từ trận đánh Thành Cổ bị thương vào đây rất đông.

Hai ngày sau, kíp trực gồm anh Vị, cô Bốn, cô Nhỡ, cô Bảng, cô Mạo, cô Kha (6*)... thấy tôi tỉnh lại họ đã rất mừng. Tám ngày sau mổ, tôi được cắt chỉ ở ổ bụng. Còn vết thương gãy đùi phải họ bó bột toàn thân và tìm cách chuyển tôi ra ngoài. Những bom đạn của địch khống chế tất cả các đường vào ra mặt trận. Mọi người đều nóng lòng. Những thương binh còn đi được thì tự rời trạm phẫu.

Một buổi tối, có ô tô đến bãi. Hai cô dân quân Quảng Trị khiêng tôi rời khỏi trạm đến xe. Nhưng đồng chí y sĩ chuyển thương thấy tôi bị nặng quá. Sợ không sống nổi dọc đường nên không nhận. Đúng lúc boom B52 lại trút xuống. Hai cô dân quân vội đưa tôi vào hầm gần đó và đi đâu không rõ. Bom nổ ầm ầm trời đất chao đảo rung chuyển, chớp giật liên tục sáng loè. Không có quả nào vào hầm tôi cả. Sự rung động liên tục làm nắp hầm tôi xơ xác. Trời lại lất phất mưa, tôi ướt hết, bột bó quệt dày bùn đất. Bom ngớt, khói đen khói lẹt bay lên trời trong đêm. Tôi mong đợi mãi, chẳng thấy ai đến cứu, thầm trách hai cô dân quân không trở lại giúp tôi. Kiến mối, ruồi muỗi bắt đầu tấn công tôi dữ dội. Sau trận bom là sự yên tĩnh đến ghê sợ. Ếch nhái hình như không sợ đạn bom, từ lặng lẽ chúng lại ca lên bản nhạc truyền thống thưa, xa, đến gần chua chát. Tối lắng tai nghe rồi thiếp đi. Chị tỉnh lại khi nghe tiếng bom pháo nổ gần. Qua đêm rồi qua ngày. Chờ đợi bất lực, nhớ đến mẹ, đến người yêu và bạn bè ở quê hương. Tôi xúc động gọi: “ mẹ ơi! con muốn sống, mặt tôi cay xè rồi tôi nức lên tự nhiên như đứa trẻ. Qua đêm nữa, cho đến chừng 10 giờ sáng ngày hôm sau. Sự đói khát làm tôi tỉnh dậy. Tôi khát nước ghê gớm, chụm tay vóc nước tiểu của mình mà không có.

Bỗng có một tốp quân giải phóng. Họ đi kiểm tra hầm hộ phát hiện ra tôi còn thở, vội vã khiêng tôi trở lại trạm phẫu thuật 204. Dịch máu ở vết thương, thấm qua bột phân hủy gây nên mùi khó chịu cho mọi người. Các y bác sĩ thay bột, lau rửa, giúp tôi sạch sẽ lại. Hỏi ra mới biết hai cô dân quân Quảng Trị đã anh dũng hy sinh ngay từ đợt bom đầu. Tôi thương xót các cô quá. Lúc này, tôi đã được chuyền dịch và máu O của đồng đội.

Hai ngày sau, tôi được chuyển dần ra đội điều trị 112. Đóng tại xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Xe vừa dừng thì máy bay Mỹ ập đến. Chúng thả hàng mấy chục ngọn pháo sáng lơ lửng trên không. Bắn đạn 20 ly, ném bom bi, mấy người vừa đưa tôi xuống hầm, thì ô tô trúng đạn bốc cháy. Chảy cả ba lô của tôi chưa kịp mang theo, tôi tiếc xót vô cùng bởi trong đó có thư từ của anh em gửi ra Bắc cũng cháy hết.

Thời kỳ này, sự kiểm soát giao thông của địch rất căng. Sông Nhật Lệ bị chúng thả thủy lôi liên tục. Thương bệnh binh các tuyến chuyển về, phải dồn lại ở điều trị 112 đông lắm. Tôi ở đây ba tháng, được nhân dân địa phương chăm sóc tận tình. Các chi đoàn Thanh niên địa phương kết nghĩa với đội điều trị luôn đến hát hò động viên và nhận thương binh bất động về gia đình chăm sóc. Tôi được bố mẹ cùng đoàn viên Nguyễn Thị Dự (7*) đón về tắm giặt đúng lịch thứ 3, thứ 6 hàng tuần, cho tôi ăn uống như người thân ruột thịt, tình cảm quân dân mà suốt đời tôi không thể nào quên. Tới giữa tháng 11 năm 1972 tôi mới được chuyển dần ra Bắc, một chặng đường vô cùng đau thương. Vì tôi chỉ nằm trên võng và luôn nghĩ mình sẽ sống như Pa Ven của thép đã tôi thế đấy. Nay đọc lại nhật ký, ghi được trong những ngày đó mà xúc động nghẹn ngào.

Đ.S.N

-----------------

(1*) Trận đấu này, có đồng chí Nguyễn Minh Thúy quê Hà Nội hy sinh

(2*) 30 năm sau ngày TNTQ tôi đã tìm đến gia đình anh Thắng ở Đắc Lắc

(3*) Sau ngày 30/04/1975 đồng chí Học là trung úy

(4*) Cả 2 người nay đã hy sinh tại Quảng Trị cuối năm 1972

(5*) Hai liệt sỹ này cùng liệt sỹ Thúy - Sau 30 năm TNTQ . Tôi đã đưa thân nhân vào chiến trường xưa tìm được hài cốt đưa về quê hương

(6*) 6 nhân viên này, tôi đã thông tin nhiều báo chí truyền hình, nhưng không có hồi âm.

(7*) Tôi đã tìm được cô Dự, lấy chồng là đại tá sống ở Đông Hà, Quảng Trị. Khi tôi đến cám ơn thì chồng vừa qua đời.

Trái tim người lính