Thủy hải chiến Việt Nam (Truyện lịch sử) (Kỳ 8)

Trân trọng giới thiệu Truyện lịch sử "Thủy hải chiến Việt Nam" của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh niên ấn hành.

Kỳ 8.

Hưng Đạo Vương đã cho quân đội rút lui gần hết, chung quanh Quốc Công Tiết Chế chỉ còn đạo hậu binh đi chặn hậu và những gia nô tùy tướng. Quốc Công Tiết Chế cưỡi trên mình một con voi đen do Dã Tượng điều khiển, nó sãi những bước dài như trái núi di động. Con voi cũng cảm nhận được sự nguy hiểm đang đe dọa chủ tướng nên nó sãi bước rất nhanh. Chung quanh con voi là những con ngựa chiến của tướng Phạm Ng Lão, của Cao Mang, của Nguyễn Địa Lô đang phi nhanh theo voi để bảo vệ chủ tướng. Chạy theo ngựa voi là những dũng sĩ chạy bộ lao vun vút rầm rập.

dao-dai-vuong-tran-quoc-tuan-1663234469.jpg
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Nguồn: Internet

 

Từ phía hậu quân một lính do thám phi nhanh ra cờ hiệu cho Quốc Công Tiết Chế dừng lại. Dã Tượng gõ nhẹ búa vào đầu con voi, voi dừng lại. Lính do thám cấp báo:

-Dạ, bẩm Quốc Công Tiết Chế, kỵ binh giặc đã nhanh chóng bịt chắn tất cả các ngã đường bộ. Nếu Quốc công đi đường bộ sẽ rất nguy hiểm. Xin Quốc công nhanh chóng quyết định.

Quốc Công Tiết Chế nói với Dã Tượng:

-Ta đã trù liệu trước, đã cho Yết Kiêu cắm thuyền đợi ta ở bến Bãi Tân thuộc sông Lục Nam. Nhưng đã quá thời điểm ta hẹn Yết Kiêu từ lâu, vả lại quân giặc tràn ngập khắp nơi, chắc gì Yết Kiêu còn ở đó.

Dã Tượng nói:

-Bẩm Quốc Công Đại Vương, Yết Kiêu là người tận trung, lại càng không phải là người sợ chết. Quốc công chưa đến thì dứt khoát Yết Kiêu còn cắm thuyền chờ đợi. Xin Quốc công đi thuyền Bãi Tân rút theo đường thủy cho an toàn. Hưng Đạo Đại Vương nói:

-Thôi đành vậy, vận của Triều đình, của Đại Việt chưa hết thì Yết Kiêu còn cắm thuyền chờ đợi.

Dã Tượng điều khiển cho voi đi xuống bờ sông Lục Nam và tiến về Bãi Tân. Quả nhiên từ xa đã nhìn thấy Yết Kiêu đang đứng cạnh con thuyền mé sông chờ đợi. Quốc Công ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão chỉ huy hậu quân rút theo đường bộ, không cần đi theo hộ tống nữa. Con voi lao với tốc độ kinh khủng đến Bãi Tân. Yết Kiêu đỡ quốc công xuống thuyền. Dã Tượng điều khiển voi rút theo đường bộ theo hậu quân của Phạm Ngũ Lão. Khi thuyền của Yết Kiêu sang đến bờ phía nam sông Lục Nam thì phía bờ bắc kỵ binh quân Nguyên Mông đã tràn xuống dày đặc. Nhưng kỵ binh Mông cổ ghì cương ngựa bất lực trước dòng sông, ngựa tung vó  trước lên trời hí vang, bụi tung mù mịt khắp dòng sông.

Sự trung thanh và can đảm của Yết Kiêu đã cứu được chủ tướng, trụ cột của cuộc kháng chiến cứu nước. Chiều tối khi về đến Tổng hành dinh ở Vạn Kiếp, Trần Hưng Đạo Đã đánh giá sự kiện này như sau: Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ sáu trụ cánh, nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường mà thôi. Các tướng dạ ran và hiểu ý Quốc Công Tiết Chế muốn nói rằng: người tướng tài giỏi cũng là nhờ những người chung quanh mình ra sức phò tá trung thành giúp sức. Nếu không thì cũng chỉ là một người bình thường, không thể làm nên nghiệp lớn.

Sau sự kiện kiên quyết cắm thuyền đợi chủ tướng, không quản hi sinh tính mạng, Yết Kiêu càng được Quốc Công Tiết Chế tin dùng, trở thành một trong 4 gia tướng thân cận nhất bảo vệ Hưng Đạo Vương. Ba người kia là Dã Tượng, Cao Mang, Nguyễn Địa Lô.

Lại nói về thế quân Nguyên Mông quá mạnh, để không cho giặc nhanh chóng đạt được mục đích là tiêu diệt toàn bộ quân chủ lực Trần, bắt sống vương triều, Trần Hưng Đạo thực hiện cuộc rút lui chiến lược khỏi Vạn Kiếp, khỏi kinh thành Thăng Long, hộ vệ  xa giá của Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Trường Yên đạo Ninh Bình. Hai đạo quân ta ở Tây Bắc do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy và đạo quân phía Nam do Chiêu Minh vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải chỉ huy cũng đã rút về đây. Phía bắc quân Thoát Hoan đã truy kích đến Thiên Trường - Nam Định, phía nam quân Toa Đô đã truy sát đến Ái Châu (Thanh Hóa). Hai gọng kìm khổng lồ của giặc đã kẹp triều đình vào giữa. Thế mước lúc này nguy nan như nghìn cân treo sợi tóc, như trứng để đầu gậy. Trần Hưng Đạo đã đưa xe cộ, cờ xí rầm rộ của triều đình giả chạy ra vùng biển Quảng Ninh đánh lừa Thoát Hoan và khi quân Toa Đô ra đến Ninh Bình thì Người đưa toàn bộ triều đình, 30 vạn quân  về Thanh Hóa, thoát khỏi thế bao vây truy sát của giặc. Trong những ngày nguy nan nhất của đất nước, Yết Kiêu đã cùng các gia tướng ra sức hộ vệ Hưng Đạo Vương và triều đình, hoàn thành việc rút từ  Ninh Bình vào Thanh Hóa an toàn.

Suốt mùa đông truy kích liên tục mà quân Nguyên –Mông không đạt được mục tiêu chiến lược là tiêu diệt quân chủ lực Đại Việt, bắt sống triều đình. Mùa hè đã sang, quân Nguyên –Mông hết lương thực, đói khát, bệnh tật hoành hành, lại bị dân binh Đại Việt tiêu hao. Quân Nguyên-Mông đứng trước nguy cơ bị thất bại. Trần Hưng Đạo nắm thời cơ, ra lệnh cho quân Đại Việt phản công chiến lược tiêu diệt quân thù. Quân Đại Việt đồng loạt tấn công phá vỡ phòng tuyến của địch ở đồng bằng sông Hồng với những chiến thắng ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết. Nhiều tướng lĩnh lừng danh và hàng vạn quân Nguyên- Mông bị tiêu diệt trong những trận chiến trên, trong đó có tên tướng Toa Đô, một tướng thiện chiến nhất của Nguyên –Mông bị chặt đầu tại Hàm Tử.

Biết chiến tranh đã thất bại, Thoát Hoan bỏ Thăng Long chạy về Vạn kiếp. Từ Vạn kiếp Thoát hoan dẫn quân đội chạy theo đường Lạng Giang lên Ải Nam Quan. Dọc con đường này Quốc Công Tiết Chế đã cho quân Đại Việt mai phục, đánh giết quân Nguyên –Mông khiến xác giặc rải dài chồng chất suốt 300 dặm. Những tướng lĩnh của quân Nguyên –Mông từng lừng danh trên các chiến trường châu Âu, châu Á, Bắc Phi đều bỏ mạng trên con đường này bởi những mũi tên thuốc độc của đồng bào Tày Nùng. Để tránh bị tên thuốc độc, Thoát Hoan phaỉ chui vào ống đồng cho quân lính khênh chạy trong đường máu mới thoát về bên kia biên giới.

3. Hai lần xâm lược Đại Việt thất bại đã làm cho Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vô cùng nhục nhã. Lúc này sau khi chiếm được Trung Quốc rộng lớn, đế quốc Nguyên –Mông đang ở vào thời huy hoàng và đỉnh cao của những võ công hiển hách nhất kể từ thời Thành Cát Tư Hãn và Oa Khát Đài. Vó ngựa của quân Nguyên-Mông đã khua dồn dập trên các chiến trường châu Âu, đã dìm các vương quốc Nga và Nam Âu trong máu lửa, đã làm rung động kinh hoàng tòa thánh Vaticăng. Vó ngựa của các chiến binh dũng mãnh này đã khua cát bụi khắp thế giới Arập. Chỉ một buổi sáng hàng vạn dân thành Bát Đa phải đầu rơi máu chảy. Những vó ngựa hung tàn này đã dày xéo Bắc Phi, tiến tới tận quê hương của các Pharaông và Kim tự tháp, đem đến những trận cuồng phong máu và lửa. Chỉ một viên tướng nhỏ của đội quân này là Ngột Lương Hợp Thai đã làm cho nước Đại Lý của người Thái (nay là Vân Nam –Trung Quốc) tan tành trong chết chóc và nước mắt. Chính Hốt tất Liệt, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn đã tiêu diệt triều đại của người Lưu khi đó đang thống trị nửa phía Bắc Trung Quốc. Năm 1279, Hốt Tất Liệt đã tiêu diệt triều Nam Tống ở phía nam Trung Quốc. Đại Đô (Bắc Kinh) trở thành kinh đô của một đế quốc hung bạo rộng lớn mà lãnh thổ của nó vắt qua từ Thái Bình Dương đến Hắc Hải.

Thế nhưng đế quốc vô địch rộng lớn đã bị Đại Việt nhỏ chưa bằng một tỉnh của Đế quốc Nguyên –Mông, dân số khoảng 7 triệu người đánh bại qua hai lần xâm lược. Không tiêu diệt được Đại Việt thì Hốt Tất Liệt không nút trôi mối hận thù, vó ngựa quân Nguyên-Mông không thể tung hoành xuống các nước Đông Nam Á và biển Đông, không thể rửa nhục cho Thái tử Thoát Hoan, vị hoàng đế tương lai của Đế quốc mà phải chui vào ống đồng mới thoát chết. Tham vọng và hận thù đã làm cho Hốt Tất Liệt mê muội không phân biệt được chính tà, phải trái. Y chỉ có một triết lí ngu muội là đã là Đế quốc lớn thì phải chinh phục nước nhỏ, bất chấp hậu quả sau này.

Thế rồi sau hai năm hì hục chuẩn bị, cuối năm 1287 Nguyên Thế Tổ huy động 50 vạn quân gồm bộ binh, kỵ binh, thủy binh mở cuộc viễn chinh xâm lược Đại Việt lần thứ ba.

(Còn nữa)

CVL