Việt Nam diễn nghĩa – Tập III (Tiểu thuyết lịch sử) (Kỳ 9)

PGS TS Cao Văn Liên

14/12/2021 08:32

Theo dõi trên

Trân trọng giới thiệu tiếp tiểu thuyết lịch sử “Việt Nam diễn nghĩa” - Tập III “NHỮNG KHÚC CA KHẢI HOÀN” của PGS TS Cao Văn Liên.

chuy1as-1639445385.jpg
Trận Bình Lệ Nguyên (1258): Đây là cuộc đụng độ đầu tiên giữa quân, dân nhà Trần với đội quân xâm lược hung hãn đến từ Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy. Trận đánh diễn ra vào ngày 17/1/1258 tại Bình Lệ Nguyên (Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Đối đầu với đội quân Mông Cổ, quân đội nhà Trần dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Trần Thái Tông đã thất bại, không thể ngăn cản bước tiến quân thù. Nghe theo lời của tướng Lê Tần (Lê Phụ Trần), vua cho lui binh chiến lược, tránh đối đầu trực tiếp với quân thù đang mạnh. Nguồn: Internet.

 

Kỳ 9.

Hôm sau, Lê Tần dậy sớm, đang ăn sáng với Trần Thái Tông thì thám má về báo:

-Dạ, bẩm hoàng thượng, có tùy tướng của Hà Bổng, chủ trại Quy Hóa về gặp.

-Cho vào.

-Dạ.

Tùy tướng của trại chủ Quy Hóa Hà Bổng đi vào quỳ gối hành lễ:

-Dạ, bẩm hoàng thượng, giặc Thát đã đem 5 vạn kỵ bịnh gồm 2 vạn kỵ binh Thái, 3 vạn kỵ binh Mông Cổ đã tràn vào chiếm Quy Hóa. Trại chủ Hà Bổng chúng tôi chống không nổi đã lui vào rừng. Quân giặc đang tiến về đây nhanh chóng. Xin hoàng thượng quyết định.

-Người đâu.

-Dạ, bẩm hoàng thượng.

-Đem tùy tướng đi ăn cơm và chăm sóc ngựa.

-Đa tạ hoàng thượng.

Rồi Trần Thái Tông ra lệnh:

-Báo động toàn quân, tiến lên Bình Lệ Nguyên dàn trận chuẩn bị chiến đấu. Giặc Thát đang tiến xuống.

-Tuân chỉ.

Tiếng trống, tiếng tù và vang động. Toàn quân tiến lên bãi rộng Bình Lệ Nguyên dàn trận. 1000 tượng binh đứng trước, tiếp theo là kỵ binh, sau kỵ binh là bộ binh. Vua Trần Thái Tông, Lê Tần cùng cấm quân đứng sau bộ binh trên gò đất cao để  chỉ huy trận đánh. Chờ khoảng canh giờ, quân Việt thấy phía trước bụi bay mù mịt, tiếng ào ào như cơn giông tố dữ dội đang ập đến, phút chốc 5 vạn kỵ binh Thái và Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai dẫn đầu đã xuất hiện. Tất cả kỵ binh giặc mặc áo giáp sắt, áo lông, mũ lông, cung tên tua tủa trên lưng, tay cầm giáo, gươm, búa và nhiều hung khí khác vô cùng dữ tợn hung ác, những lá cờ đen thêu chữ trắng “Thát Đát” bay rợp trời. Thấy quân Việt, kỵ binh Mông Cổ dàn trận hình cánh cung triển khai thế bao vây, một thế trận cổ điển của quân Mông Cổ. Đi hàng đầu có lá cờ thêu chữ “Soái” chính là một trong những tên tướng lừng lẫy của đế quốc Mông Cổ: Ngột Lương Hợp Thai. Đi cạnh Ngột Lương Hợp Thai là A Truật, con trai của Ngột Lương Hợp Thai, cạnh nữa là Hoài Đô, phò mã Mông Cổ, tiếp đó là Abiska và Đoàn Hưng Trí, quý tộc của  Đại Lý vừa bị mất nước làm hướng đạo cho Ngột Lương Hợp Thai. Đi hàng đầu là 2 vạn kỵ binh người Thái, là tấm bia che tên đạn cho 3 vạn kỵ binh Mông Cổ ở phía sau, đồng thời kỵ binh Thái còn làm cho quân Việt hao tổn binh lực, tạo điều kiện cho kỵ binh Mông Cổ bao vây tiêu diệt. Cờ bay phấp phới, tiếng trống trận vang lừng, Ngột Lương Hợp Thai quan sát thấy sau tượng binh, kỵ binh và bộ binh là một người cưỡi ngựa màu nâu có che lọng vàng, mặc giáp vàng và áo chiến bào vàng thì biết đó chính là vua Đại Việt Trần Thái Tông. Ngột Lương Hợp Thai ra lệnh cho A Truật tấn công cánh phải, Hoan Đô tấn công cánh trái, còn Hợp Lương Hợp Thai tấn công cánh giữa, bao vây tiêu diệt quân Việt và bắt sống hoặc là hạ sát Trần Thái Tông, giành chiến thắng nhanh chóng và quyết định như ở các quốc gia khác mà vó ngựa Ngột Lương Hợp Thai đã đi qua.

Trong khi A Truật và Hoan Đô tản ra hai cánh hình thành thế bao vây thì Ngột Lương Hợp Thai vẫy cờ, 2 vạn kỵ binh người Thái xông lên. Trần Thái Tông vẫy cờ, 1000 con voi xông lên, kỵ binh người Đại Lý chết hàng nghìn vì bị voi dầy, vì bị những mũi tên của lính từ lưng voi bắn xuống. Ngột Lương Hợp Thai phất cờ, kỵ binh Mông Cổ dùng những mũi tên cực mạnh và chính xác bắn vào vòi voi, chân voi và mắt voi. Voi bị đau quay đầu chạy trở lại dày xéo lên chính quân Việt. Thế trận quân Việt rối loạn. Kỵ binh Mông Cổ mặt trước xông lên, kỵ binh hai cánh phải và trái khép vòng vây. Quân Việt vẫn kiên cường chiến đấu nhưng nguy cơ bị bao vây đã rõ. Kỵ bịnh, bộ binh Việt hy sinh vô kể. Xác quân Nguyên Mông, xác quân Việt chất chồng như núi. Tiếng ngựa hí, tiếng voi gầm, tiếng gươm giáo chạm nhau tóe lửa, thây đổ máu phun. Hai cánh kỵ binh Mông Cổ cố mở đường máu quyết xông vào nơi Trần Thái Tông đang đứng. Hàng rào lính ngự lâm bảo vệ cho vua gục ngã xuống vơi dần. Lê Tần cũng tả xung hữu đột để bảo vệ vua. Nhưng tính mạng quân Việt và nhà vua đang trong phút nghìn cân treo sợi tóc. Lê Tần biết đã đến lúc nói với vua những điều cần nói:

-Quân chủ lực của ta có nguy cơ bị tiêu diệt hết, tính mệnh hoàng thượng cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng, xin hoàng thượng hạ lệnh rút lui bảo toàn lực lượng đánh trận khác có hơn không.

Trần Thái Tông đáp:

-Nay ta chết tại chiến trường để đền nợ nước là thỏa chí rồi chứ sao lại rút.

Lê Tần nói:

-Nay toàn quân bị tiêu diệt, hoàng thượng hi sinh thì nước mất, không thể lấy lại được nữa. Hoàng thượng không thể như người đánh bạc say máu lên là đánh dốc túi. Mong Hoàng thượng nghĩ đến bách tính, triều đình và đất nước. Các nước hùng mạnh sở dĩ mất nước vào tay bọn Thát là vì không chịu rút lui, bảo toàn lực lượng và người lãnh đạo để đánh lâu dài, trúng vào cái bẫy đánh nhanh thắng nhanh của chúng, lại còn do thói ích ký cá nhân là đánh cho thỏa chí anh hùng. Thỏa chí anh hùng mà nước mất thì còn ý nghĩa gì. Hoàng thượng mau tỉnh ngộ đi.

Trần Thái Tông nghe như sực tỉnh cơn say mê chiến trận:

-Khanh nói phải lắm, rút lui bảo toàn lực lượng để đánh lâu dài.

Rồi Trần Thái Tông ra lệnh cho toàn bộ quân đội rút lui.

Trần Thái Tông và quân đội rút về bờ Nam sông Cà Lồ. Tượng binh đi sau cản đường kỵ binh Mông Cổ truy kích, tiếp theo là kỵ binh, đi trước kỵ binh là bộ binh. Quân Mông Cổ do bị tượng binh cản đường không thể đuổi kịp. Tuy nhiên khi tượng binh chưa qua hết, do quân Mông Cổ sắp đuổi kịp, Trần Thái Tông đành phải ra lệnh phá cầu Phủ Lỗ bắc qua sông Cà Lồ. Hàng trăm con voi Việt sa xuống sông, cả hàng trăm kỵ binh Mông Cổ đang phi quá đà nên cả người và ngựa đều phi xuống sông chìm nghĩm. Vua và quân Việt xuống 1000 chiến thuyền đậu bên bờ Nam, tượng binh, kỵ binh rút theo đượng bộ. Quân Mông Cổ không qua được sông điên cuồng lộng lộn bắn sang thuyền vua. Lê Tần ra lệnh lấy ván lát đáy thuyền che tên cho vua. Vua Theo sông Cà Lồ ra sồng Hồng và về bến Đông bộ Đầu. Kỵ Binh Mông Cổ lồng lộn bên bờ Bắc sông Cà Lồ, bắn tên xuống sông để dò mức nước. Chúng tìm thấy một đoạn sông tên bắn xuống không nổi lên tức là nước nông, tên bị ghim vào đất. Kỵ binh Mông Cổ ào ào qua sông phi như bay về Thăng Long truy kích quân Việt. Kỵ binh Ngột Lương Hợp Thai đến bờ Bắc sông Hồng thì phải dừng lại vì trời đã tối, cầu phao qua sông đã bị quân Việt phá. Mấy vạn người ngựa đang say máu chém giết đành phải dừng lại bên bờ sông để cho người ngựa ăn uống, sáng mai bắc cầu phao mới tấn công kinh thành được. Ngột Lương Hợp Thai nhìn ánh đèn bên kia sông mà căm giận. Lần đầu tiên trong cuộc đời chinh chiến nổi tiếng tàn bạo và chiến thắng của hắn, hắn đã để cho quân chủ lực và hoàng đế của một nước chạy thoát dù đã nằm trong thế hợp vây của hắn. Hắn cho lính sục sạo quanh vùng Gia Lâm nhưng toàn vườn không nhà trống, không một bóng người, không một cái gì có thể ăn được. Hắn thề ngày mai vào Thăng Long sẽ làm cỏ hoàng thành Đại Việt cho hả cơn giận.

Sớm hôm sau Ngột Lương Hợp Thai ra lệnh:

-Vào nhà dân Đại Việt chung quanh phá nhà cửa, bàn ghế để làm cầu phao vượt sông tiến vào Thăng Long.

-Dạ, tuân lệnh chủ soái.

Sau khi bắc xong cầu phao, Ngột Lương Hợp Thai ra lệnh:

-Tiến vào kinh thành Đại Việt, chỉ được giết chóc, cướp bóc, không được đốt phá, để dinh thự nhà cửa chúng ta ở.

-Dạ, tuân lệnh chủ soái.

Kỵ binh Mông Cổ rú lên sung sướng, cảnh tượng kinh hoàng như thủ đô Bát Đa I Rắc sắp được tái diễn. Ở Bát Đa chúng đã giết 8 vạn người trong một buổi sáng. Nhớ lại, lính tráng vô cùng phấn kích và lên cơn như điên dại. Giết người và máu chảy trở thành cơn nghiện của bọn xâm lăng khát máu. Chúng phi ngựa hàng dọc qua cầu phao trong tiếng reo hò man rợ, chiếc cầu phao mỏng manh rung lên bần bật. Sông Hồng sắp được chứng kiến kinh thành Thăng Long của mình lại trải qua thảm họa thứ 20 trong lịch sử  do ngoại bang mang tới.

Đến Đông Bộ Đầu và dưới chân thành, Kỵ binh Mông Cố thấy Thăng Long im lặng đến rợn người. Không một tiếng động, trên thành những lá cờ vàng vẫn bay phần phật dưới gió đông, lá vàng rụng đầy trên lối đi chứng tỏ không có bước chân người. Ngột Lương Hợp Thai sợ bị mai phục, ra lệnh bao vây, bắn tên vào thành như mưa, vẫn không thấy trong thành phản ứng gì. Ngột Lương Hợp Thai ra lệnh phá cổng thành, quân Mông Cổ tràn vào, ánh gươm sáng loáng sẵn sàng giết chóc. Nhưng chúng hụt hẩng. Thăng Long chỉ là một tòa thành trống rỗng, không một bóng người. Thì ra nhà Trần đã cho cả triều đình và bách tính sơ tán khỏi kinh thành, không biết đi về đâu. Không bắt được triều đình, không giết được bách tính, Ngột Lương Hợp Thai điên cuồng ra lệnh:

-Lục soát, thu hết vàng bạc và lương thực.

-Tuân lệnh chủ soái.

Quân Mông Cổ lùng sục khắp nơi, từ kinh thành đến hoàng thành cho đến Tử Cấm Thành, từ nhà dân cho đến hoàng cung, cung điện mà không một chút lương thực và vàng bạc.  Ngột Lương Hợp Thái đang ngồi trong điện Thiên An thì lính dẫn ba người bị trói đến. Ngột Lương Hợp Thai nhìn kỹ thì hóa ra ba tên sứ giả mà hắn đã cử đến Đại Việt đưa thư dụ hàng Trần Thái Tông. Ngột Lương Hợp Thai hỏi:

-Tìm thấy chúng ở đâu?

-Dạ, bẩm chủ soái, trong nhà ngục ạ.

-Mở trói cho chúng.

-Dạ.

Mở trói xong thì cả ba tên gục xuống. Một tên lính đưa tay vào mũi một tên sứ giả:

-Dạ, bẩm chủ soái, một sứ giả đã chết rồi ạ.

Ngột Lương Hợp Thai như phát điên:

-Ta mà bắt được thì xé xác Trần Thái Tông ra trăm mảnh. Cậy miệng hai tên còn lại đổ sữa ngựa cho chúng, chúng đói quá ngất đi thôi.

Trong thành trống rỗng. Ngột Lương Hợp Thai cho rằng Đại Việt là một đất nước kỳ lạ mà lần đầu tiên hắn gặp trong cuộc đời chinh chiến khắp châu Âu, châu Á của hắn. Đó là lần đầu tiên khi triển khai nhanh chóng thế bao vây mà hắn không tiêu diệt được quân chủ lực của đối phương, không bắt được quân chủ lực của một nước bại trận, lại để vua Trần Thái Tông và quân chủ lực Đại Việt chạy thoát. Câu châm ngôn và niềm tự hào của kỵ binh Mông Cổ: Khi kỵ binh Mông Cổ mà đuổi thì không con mồi nào chạy thoát bây giờ đã sai ở Đại Việt. Thứ hai là lần đầu tiên Ngột Lương Hợp Thai vào một kinh thành của một nước bại trận mà trống rỗng, không triều đình, không bách tính, không lương thực. Tình huống của quân đội hắn bây giờ thực sự đáng lo ngại bởi triều đình và bách tính Đại Việt không hề run sợ quân Mông Cổ như những quốc gia khác, nội bộ lại đoàn kết nhất trí. Về địa thế của chiến tranh, Đại Việt là nước nhiều sông ngòi, tại đây, thế mạnh kỵ binh của Mông Cổ không phát huy được như ở các vùng đồng ruộng khô bát ngát như ở Nam Âu, Nga La Tư, Trung Á, Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi. Thế mạnh của Đại Việt là thủy binh. Chính sông ngòi đã ngăn chặn tốc độ của kỵ binh Mông Cổ, chính thủy binh đã giúp cho vua Trần và đại quân rút lui an toàn và nhanh chóng. Thuyền bè cũng đã giúp triều đình và bách tính kinh thành Thăng Long sơ tán nhanh chóng. Dù bắt đầu lo ngại nhưng Ngột Lương Hợp Thai tin rằng vài ngày nữa Trần Thái Tông sẽ về lại kinh thành ký hiệp ước đầu hàng.

Ngột Lương Hợp Thai và đại quân đã vào Thăng Long 10 ngày rồi mà vẫn không có tăm hơi vua Trần Thái Tông sẽ về đầu hàng, càng không có tăm hơi quân chủ lực Đại Việt và triều đình ở đâu. Các thám mã Ngột Lương Hợp Thai cử đi do thám chỉ có đi mà không có về. Cái nguy nhất của kỵ binh Mông Cổ là thiếu lương thực cho người và cho ngựa. Quân Mông Cổ do truyền thống là kỵ binh nên không có đội quân phu phen vác lương thực như những quốc gia phong kiến khác nhằm bảo đảm sức cơ động nhanh chóng. Mỗi người lính phải tự mang lương thực cho mình trên mình ngựa, đủ ăn trong khi hành quân. Còn lại là lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, tức là khi đánh chiếm một quốc gia nào thành công thì cướp bóc ở quốc gia đó để lấy lương thực nuôi quân, nuôi ngựa. Bản thân ngựa là phương tiện chiến đấu nhưng cũng là lương thực. Khi bước đường cùng thì quân Mông Cổ được phép giết ngựa để ăn, nhưng giết ngựa để ăn là cùng bất đắc dĩ, gậy ông đập lưng ông, giết ngựa ăn thì sẽ thiếu phương tiện hành quân chiến đấu hoặc để tháo chạy. Kế hoach lấy chiến tranh nuôi chiến tranh vốn là truyền thống của quân đội Mông Cổ từ thời Thành Cát Tư Hãn cho đến bây giờ.

(Còn nữa)

CVL

Bạn đang đọc bài viết " Việt Nam diễn nghĩa – Tập III (Tiểu thuyết lịch sử) (Kỳ 9)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn