Cây cau đã gắn bó với người dân Việt Nam từ rất lâu đời, được dân gian đưa vào câu chuyện “Sự tích trầu cau” để lí giải về sự xuất hiện của một loại quả mà từ lâu đã không thể thiếu trong mỗi dịp đám hỏi, đám tang.
Cây cau có hình dáng hơi giống cây dừa. Thân cây có những đốt vòng tròn-vết tích của mỗi lần cây thay lá, ra hoa. Thân dưới gốc cây to rồi từ từ hẹp lại về phía trên ngọn với những tàu lá rộng giống những chiếc lược không lồ phất phơ trước gió.
Trong kí ức tuổi thơ có ai còn nhớ? Khi tàu lá cau khô héo rụng xuống, đó là lúc lũ trẻ tranh nhau ngồi lên tàu lá rồi kéo nhau đi khắp nẻo đường ngõ xóm, hết lượt này ngồi lại tới lượt khác. Mọi người tranh giành nhau để được ngồi lên “con thuyền hạng sang”.
Khi cây cau trưởng thành sẽ bắt đầu ra hoa. Hoa cau có màu trắng, tỏa ra hương thơm không gay mũi như hoa sữa, hoa nhài,… Hoa cau mang một mùi thơm dịu nhẹ rất riêng mà chỉ khi làn gió nhẹ thổi qua ta mới có thể cảm nhận được. Quả cau hình tròn hoặc hơi dài được kết thành buồng, khi lớn mang một màu xanh đậm, cùi vàng, nhân quả màu nâu. Lúc này, quả cau đã có thể phối cùng vôi, lá trâu thở thành “đầu câu chuyện” để bắt mối lương duyên hay những khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, ma chay...
Theo truyền thuyết và tư liệu cổ, phong tục ăn trầu cau ở Việt Nam đã xuất hiện từ thời các vua Hùng lập nước. Vượt qua thăng trầm của xã hội, thói quen ăn trầu và mời trầu vẫn là một nét đặc sắc, bền vững trong sinh hoạt của người Việt, hiện hữu đến ngày nay trong cuộc sống nông thôn và được biểu trưng hóa qua các nghi thức tâm linh.
Không chỉ là phong tục riêng của người Việt, thói quen này còn phổ biến ở các vùng nhiệt đới châu Á, Trung Á, Đông Nam Á và một số quần đảo trên Thái Bình Dương. Tuy nhiên, ngôn ngữ của trầu cau tại mỗi dân tộc lại có sự đặc sắc riêng. Ở người Việt, miếng trầu cau trở thành biểu tượng cho giao tiếp xã hội, là cách diễn đạt mối quan hệ giữa con người. Qua miếng trầu và cách mời trầu, người xưa đã truyền đạt các tình cảm: Yêu hay ghét, giao tiếp hay chân tình… một cách tinh tế:
'Yêu nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra mười'
Ngôn ngữ của miếng trầu còn làm phong phú nghệ thuật từ chối hay đồng ý trong tình cảm nam nữ:
'Đi đâu để đổ mồ hôi
Chiếu trải không ngồi, trầu để không ăn
Nếu bác mẹ em cấm
Làm con gái chớ ăn trầu người.'
Thường gồm lá trầu xanh đã được têm, chút vôi trắng, cùng miếng cau vàng, miếng trầu là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Sự kết hợp của cau, vỏ chay, vỏ quế và thuốc lào tạo nên hương vị đặc biệt: Vị ngọt của cau, hương thơm của tinh dầu trong lá trầu, vị cay, thơm của vỏ… Sự hòa quyện này không chỉ làm cho cơ thể ấm lên bởi sinh khí từ vôi mà còn tạo nên cảm giác chếnh choáng men say do arécoline trong hạt cau.
Ngoài lợi ích cho sức khỏe, ăn trầu cau còn có tác dụng làm đẹp. Chất polyphenol trong lá trầu kháng khuẩn, arécoline trong hạt cau tác động với vôi tạo nên màu đỏ tươi, giúp làm đẹp đôi môi, đôi má và mắt… Kích thích tuần hoàn máu và hệ thần kinh, giúp tăng cường sinh lực và làm cho cuộc trò chuyện thêm sôi động. Người con gái có “má hồng, môi đỏ” từ ăn trầu, đến cười lộ răng đen tuyền từ ăn trầu đã từng là tiêu chí đánh giá “vẻ đẹp” trong xã hội truyền thống.
Trong cuộc sống hàng ngày, 'miếng trầu là đầu câu chuyện', thể hiện mối quan hệ tâm tình giữa con người. Trầu được dùng khi mời khách, làm quen trong các sự kiện hội hè, lễ hội:
'Gặp nhau ăn một miếng trầu
Đó là cách chào hỏi cổ truyền sau này.'
Hoặc:
'Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi quê quán ở đâu vậy?
Xưa kia ai biết ai đâu
Chỉ vì thuốc lá, miếng trầu đã gắn liền.'
Trầu cau đã trở thành một phần không thể thiếu trong nghi lễ tâm linh như lễ tế Trời Đất, lễ Phật, lễ thánh, thần, lễ gia tiên… Trong cuộc sống xã hội của người nông dân xưa, cau trầu xuất hiện ở mọi nơi, từ cưới xin, ma chay đến khao vọng… Người có công việc muốn báo cáo với quan nhất thiết phải mang theo cơi trầu, nhà có tang để báo tin làng để chuẩn bị tang lễ hoặc cha mẹ dựng vợ gả chồng cho con, báo hỷ với họ hàng, làng xóm, bạn bè cũng bắt đầu từ cơi trầu. Việc trai gái làm quen cũng bắt đầu từ “ngôn ngữ” trầu cau; nhận trầu cũng là đồng ý cầu hôn, bởi “miếng trầu nên dâu nhà người”.
Thói quen ăn trầu cau là phổ biến trong đời sống của người Việt, và phong tục mời trầu đã là đặc điểm của lối sống lịch sự, tinh tế và 'ngôn ngữ siêu' của người Việt truyền thống, là biểu trưng cho tinh thần mở cửa của những người dân nông dân lúa nước. Liên quan đến tục này là một bộ dụng cụ đa dạng. Dù giàu hay nghèo, vua hay dân thường, người Kinh hay dân tộc thiểu số, ai cũng có thể thể hiện tình cảm của mình, chỉ khác nhau về dụng cụ ăn trầu.
Phong tục ăn trầu cau của người Việt đã trở thành nét văn hóa độc đáo, sống sót qua các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc. Ngày nay, mặc dù vẫn giữ vai trò quan trọng trong các nghi lễ truyền thống, nhưng thói quen này đang dần mất đi trong cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, những kí ức về một lối sống “mở” vẫn còn sống trong tiềm thức của nhiều thế hệ. Do đó, chúng ta càng trân trọng những di sản văn hóa giản dị nhưng đã tạo nên tâm hồn và bản sắc Việt Nam.