Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 7)                             

Trân trọng giới thiệu tiếp "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử" của PGS TS Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành.

b1-thanh-nha-ho-1684049406.jpg

Cổng thành Nhà Hồ. Thành Nhà Hồ cách thủ đô Hà Nội khoảng 150 km về phía Nam (do Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397) còn gọi là thành Tây Đô hoặc Tây Kinh (kinh đô phía Tây Đại Việt), thành An Tôn (thành ở khu vực động An Tôn thời Trần),  thành Tây Giai (vì ở phía Tây thuộc địa phận thôn Tây Giai), Thạch Thành (tòa thành xây dựng bằng đá), Thành Nội (vòng thành quan trọng bên trong La Thành) thuộc địa phận 2 xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ảnh: Internet.

 

Kỳ 7

VI.  QUỐC HIỆU ĐẠI NGU THỜI HỒ (1400-1407)

Hồ Quí Ly lên ngôi dời đô về Tây Đô (Thanh Hoá), đổi quốc hiệu từ Đại Việt thành Đại Ngu (Niềm vui lớn), Thăng Long được gọi là Đông Đô. Hồ Quí Ly đã tiến hành một loạt cải cách chính trị, kinh tế, văn hoá , quân sự  mong cứu vãn sự khủng hoảng của chế độ điền trang thái ấp.

Hồ Quí Ly thi hành chính sách hạn điền, hạn nô nhằm hạn chế việc cướp đoạt ruộng đất của quí tộc đối với nông dân, hạn chế việc biến nông dân thành nô tì. Nhà nước phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng, chấn chỉnh việc học hành thi cử,  dùng chữ Nôm thay cho chữ Hán. Cải cách của Hồ Quí Ly là mạnh dạn, tích cực nhưng không đáp ứng được mong muốn của nhân dân. Cải cách chỉ đem lại quyền lợi cho họ Hồ. Tiền giấy ra đời không do nhu cầu phát triển kinh tế mà chỉ nhằm tăng ngân qũi cho nhà nước, thu đồng về đúc súng đạn, ruộng đất nô tì cuối cùng lại lọt vào tay họ Hồ. Về quân sự nhà Hồ chỉ chăm lo xây dựng thành quách, quân số quân đội đông đúc mà không chú ý dựa vào nhân dân để bảo vệ tổ quốc. Nhân dân không được lợi ích gì trong cải cách của Hồ Quí Ly. Cải cách  bị quí tộc nhà Trần chống lại vì đụng chạm đến quyền lợi cố hữu của chúng. Cải cách của Hồ Quí Ly thất bại và nhà Hồ bị cô lập giữa các thế lực giai tầng trong xã hội.

          Trước khi nhà Hồ nắm quyền 32 năm, năm 1368 ở Trung Quốc đã thay đổi triều đại: Chu Nguyên Chương, một lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân đã lật đổ nhà Nguyên, lập ra nhà Minh. Nhà Minh thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta, huy động 20 vạn quân tinh nhuệ, 60 vạn dân phu phục vụ với những tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm chiến đấu do Trương Phụ làm chủ soái. Ngày 19 tháng 11 năm 1406, quân Minh tràn vào nước ta. Ngày 20 tháng 1 năm 1407 thành Đa Bang dài 700 dặm (400km) ở bờ Bắc sông Cầu mà nhà Hồ dầy công xây dựng bị quân Minh phá vỡ. Ngày 22 tháng 1 năm 1407 giặc chiếm Thăng Long. Quân đội nhà Hồ thua to phải rút về Thanh Hoá. Trong một trận đánh quyết định trên bờ sông Liễu Giang (Kim Sơn-Vĩnh Lộc-Thanh Hoá) để bảo vệ Tây đô, quân ta đại bại và tan vỡ. Triều đình rút chạy về phía nam nhưng bị giặc bắt ở Hà Tĩnh, trong đó có Thái Thượng Hoàng Hồ Quí Ly, vua Hồ Hán Thương, Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, các đại thần trong đó có cha con Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Phi Hùng.

          Nhà Hồ do Hồ Quí Ly sáng lập tồn tại được bảy năm qua 2 đời vua: Hồ Quí Ly (1400) và Hồ Hán Thương (1401-1407).

          Nguyên nhân thất bại của nhà Hồ nằm trong sự khủng hoảng tạm thời của chế độ phong kiến Việt Nam, ở chính sách cải cách thất bại không được lòng dân. Khi chiến tranh bùng nổ, nhà Hồ không phát động được cuộc chiến tranh nhân dân, không rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng, thực hiện kháng chiến lâu dài để chuyển biến đối sánh lực lượng có lợi cho ta,  sau đó phản công chiến lược tiêu diệt địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng,  kết thúc chiến tranh rhắng lợi. Nhà Hồ ngay từ đầu đã đưa toàn bộ quân đội lên chống giặc, tạo cho quân Minh phát huy được thế mạnh ban đầu của chúng, phá tan phòng tuyến, tiêu diệt chủ lực ta, bắt sống triều đình, nhanh chóng kết thúc chiến tranh xâm lược.

          Thất bại của triều Hồ đẩy dân tộc ta vào thảm hoạ. Sau gần 500 năm độc lập, nước ta lại bị biến thành quận huyện của Trung quốc. Tháng 4 năm 1407, nhà Minh đổi Đại Ngu thành quận Giao Chỉ, thiết lập bộ máy cai trị phong kiến quân sự hà khắc. Trên cơ sở bộ máy bạo lực to lớn hung bạo, giặc Minh đàn áp, bóc lột, đồng hoá nhân dân ta một cách tàn bạo. Chúng cấm nhân dân ta không được tích luỹ,  sản xuất vũ khí, mở các cuộc càn quét khủng bố giết chóc dã man bằng cách mổ bụng, thiêu sống, rán thịt người lấy mỡ. Chúng cướp bóc, vơ vét của cải, đánh nhiều thứ thuế vào mọi hạng người và vào mọi nghề nghiệp. Thuế ruộng tăng gấp 3 lần so với thời Hồ. Chúng nắm độc quyền mua bán muối, sắt để chi phối đời sống nhân dân ta. Phu phen tạp dịch nặng nề. Dân đinh từ 16 đến 60 tuổi phải đi lao dịch, cứ 2 suất đinh chúng bắt một suất lính. Thâm độc và bao trùm nhất là chính sách đồng hoá văn hoá dân tộc. Giặc Minh ra sức cướp và thủ tiêu tất cả sách vở, bia đá, di cảo của dân tộc ta. Chúng buộc nhân dân ta phải theo phong tục tập quán Trung Quốc như ăn mặc, trang sức. Chính sách áp bức bóc lột đồng hoá của nhà Minh đã đẩy dân tộc ta vào cuộc thử thách hiểm nghèo, đứng trước sự diệt vong.

          Nhưng với truyền thống kiên cường quật khởi bất khuất, ý chí độc lập mạnh mẽ, nhân dân ta không khuất phục, đã liên tục đứng dậy đấu tranh giải phóng dân tộc. Khởi nghía Trần Ngỗi (1407-1409), khởi nghĩa Trần Quí Khoáng (1409-1413) ở Thanh Hoá, khởi nghĩa của nhà sư Phạm Ngọc (1419-1420) ở Hải Phòng, Lê Ngã (1419-1420) ở Quảng Ninh lan ra khắp miền Đông Bắc.

          Những cuộc khởi nghĩa đó  bị đàn áp thất bại nhưng đã giáng những đòn mạnh mẽ vào nền thống trị của quân Minh, tạo tiền đề cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo bùng nổ năm 1418 và thắng lợi năm 1427, khôi phục lại nền độc lập đất nước và lập ra nhà Hậu Lê (1428-1789).

(Còn nữa)

CVL