Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 9)                             

Trân trọng giới thiệu tiếp "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử" của PGS TS Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành.

b1hoang-thanh-tl-1684226732.jpg

Hoàng thành Thăng Long - công trình còn lưu giữ nhiều dấu ấn của thời nhà Lý. Ảnh: Internet.

 

Kỳ  9
Đại Việt thời Lý còn tồn tại ruộng đất công của công xã, loại ruộng đất này chiếm đại bộ phận trong nước. Công xã tức là đơn vị hương giáp. Công xã cấp ruộng cho những thành viên của mình cày cấy và nộp tô, thuế, đi lao dịch, đi lính cho nhà nước vì quyền sở hữu tối cao ruộng đất thuộc về nhà vua. Vua có quyền đem ruộng đất công xã và một số hộ trong đất đó cấp cho quan lại làm ruộng thực phong thực ấp.

Loại ruộng đất thứ 3 đời Lý là ruộng quốc khố thuộc quyền sở hữu và sử dụng của nhà nước. Nhà nước giao cho tù nhân, tù binh cày cấy và nộp tô cho nhà nước. Tô của loạị ruộng này rất nặng so với ruộng của công xã và thái ấp. Ngoài ra,  còn loại ruộng tư của địa chủ, của nông dân tự canh. Việc mua bán ruộng đất dưới thời Lý diễn ra ngày càng phổ biến theo qui luật chiếm hữu tư nhân ngày càng phát triển.

          Chính sách ruộng đất và các loại chiếm hữu ruộng đất dưới thời Trần cũng tương tự như thời Lý. Cái khác là ở đời Trần chế độ điền trang thái ấp phát triển mạnh do nhà nước dùng nhiều ruộng đất ban cấp cho hoàng tộc, quan lại, công thần, còn là do nạn quí tộc ra sức dùng mọi thủ đoạn cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Chính sự phát triển mất cân đối này làm cho chế độ điền trang thái ấp cuối đời Trần, đời Hồ lâm vào cuộc khủng hoảng và diễn tiến thành cuộc khủng hoảng cục bộ, tạm thời của chế độ phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV.

Sau khi chiến thắng quân Minh, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, triều Hậu Lê được xây dựng trên cơ sở kinh tế địa chủ tá điền. Để đẩy mạnh chế độ tư hữu ruộng đất, nhà Lê thi hành chế độ “Quân điền” ban hành năm 1429 đời Lê Thái Tổ. Chế độ này qui định dùng ruộng đất công của công xã chia cho quan lại và nông dân. Phần đất của dân ít hơn phần đất của quan lại. Quan tước vị  và chức vụ thấp phần ruộng ít hơn quan có chức vụ và tước vị cao. Ví dụ một viên quan Tam phẩm được 11 phần thì  một nông dân nghèo chỉ được 3 phần. Thời gian được cấp là 6 năm. Nông dân cày ruộng được chia nhưng phải nộp tô, đi lao dịch, binh dịch cho nhà nước. Với chính sách “Quân điền” nhà Lê vẫn bảo tồn công xã, tế bào của xã hội phong kiến, mặt khác khôn khéo lợi dụng công xã phục vụ cho lợi ích của nhà nước, biến công xã thành cơ sở để chính quyền bóc lột, công xã phải lệ thuộc vào nhà nước, nông dân công xã thành tá điền của nhà nước. Đây là một bước huỷ bỏ dần dần tính tự trị của công xã, đẩy nhanh quá trình phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam.

Tiếp theo chính sách “Quân điền”, năm 1477, Lê Thánh Tông ban hành chính sách “Lộc điền”. Lộc điền là ruộng đất của nhà nước ban cấp cho quan lại cao cấp từ tứ phẩm trở lên. Lộc điền bao gồm hai loại ruộng, một phần cấp vĩnh viễn cho chủ đất, một phần cấp sử dụng không vĩnh viễn. Sau ba năm chủ đất chết, phần không vĩnh viễn phải trả lại cho nhà nước. Ví dụ một thân vương nhất phẩm được ban cấp 218 mẫu, trong đó có 18 mẫu cấp vĩnh viễn, số còn lại là cấp không vĩnh viễn. Chế độ “Lộc điền” coi như lương bổng nhà nước cấp cho quan lại. Giống như nhà Lý, nhà Lê cũng qui định người được hưởng “Lộc điền” không được biến nông dân thành nông nô nhằm chống lại việc phát sinh lãnh địa thế tập phong kiến cát cứ, bảo đảm quyền lực vĩnh viễn của trung ương, buộc tầng lớp địa chủ mới này phải lệ thuộc vào nhà nước, bảo vệ nông dân, bảo vệ lực lương sản xuất của xã hội.

          Chính sách ruộng đất của nhà Hậu Lê dù là “Quân điền “hay “Lộc điền” đều nhằm bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước, mặt khác , mở rộng chế độ tư hữu ruộng đất, phục hồi phát triển nền kinh tế địa chủ, tiểu nông, chỗ dựa kinh tế xã hội của nhà Hậu Lê, giải quyết được những mâu thuẫn ruộng đất nẩy sinh nghiêm trọng gay gắt cuối đời Trần- Hồ, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội. Song chính sách nào của một nhà nước bao giờ cũng có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Trong tích cực đã chứa đựng yếu tố tiêu cực. Chính sách ruộng đất của nhà Hậu Lê chứa đựng mâu thuẫn và sự vận động của mâu thuẫn này sẽ dẫn nhà Lê đến suy vong vào thế kỷ XVI và sụp đổ vào thế kỷ XVIII.

          Để phát triển nông nghiệp, các vương triều từ Tiền Lê đến Hậu Lê đều chăm lo xây dựng bảo vệ đê điều, phát triển hệ thống tưới tiêu nông nghiệp. Nhà Tiền Lê đã tiến hành nạo vét kênh, sông, mở mang đường thuỷ tiện lợi cho giao thông và cung cấp nước tưới tiêu. Nhà Lý tiến hành xây dựng các công trình thuỷ lợi có qui mô lớn, đắp đê Cơ Xá (đê sông Hồng), cho khơi sâu thêm các sông ngòi ở vùng Thanh Hoá. Nhà Trần tiến hành đắp đê phòng lụt hàng năm với qui mô lớn. Đặt ra chức Hà đê chánh sứ, Hà đê phó sứ chịu trách nhiệm trông coi đê điều. Triều đình coi việc đê điều là việc của nhà nước. Vua Trần có khi tự trông coi việc đắp đê. Thời Hậu Lê ra sức tu bổ hệ thống đê điều đã có và đắp thêm đê mới: đê Hồng Đức, đào nhiều sông ở Thanh Hoá được gọi là sông nhà Lê. Ngoài chức Hà đê chánh phó sứ, nhà Hậu Lê còn đặt chức “Khuyến nông sứ”. Các công xã ở các địa phương phải đảm nhận xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ. Việc kiểm tra đê điều dưới thời Hậu Lê được tiến hành thường xuyên  và hết sức chặt chẽ.

          Để mở rộng thêm diện tích cày cấy, các vương triều định ra chính sách khai hoang. Nhà Lý và nhà Hậu Lê chiêu dụ nông dân phiêu tán trở về quê nhận ruộng cày cấy. Nhà Trần đặt ra chức Đồn điền chánh sứ, Đồn điền phó sứ trông coi khẩn hoang và quản lý đồn điền. Năm 1260 nhà Trần cho phép vương hầu, công chúa, phò mã chiêu tập dân nghèo không có đất bị biến thành nô tì tiến hành khai hoang ven biển, ven sông Hồng lập nên những đồn điền rộng lớn. Các đồn điền do khẩn hoang mà lập nên đều thuộc quyền sở hữư của chủ đồn điền. Khẩn hoang là một trong những chính sách lớn của triều Hậu Lê. Năm 1481 nhà nước có 43 đồn điền do đất khai hoang lập nên, đặc biệt chú trọng khẩn hoang đất đai phía Nam, ven biển và miền trung du. Nhiều làng ở Hải Dương, Hưng Yên và ven biển Thanh-Nghệ đều được lập vào thế kỷ XV. Các vương triều đều chú trọng khuyến nông. Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đặt ra lệ “Tịch điền”, nhà vua cầm cày cày luống đầu tiên vào ngày 1 tết nguyên đán để khuyến khích nông nghiệp. Nhà Lý, Trần, nhà Hậu Lê nghiêm cấm việc giết hại trâu bò để bảo vệ sức kéo. Những năm mất mùa đói kém, các vương triều đều miễn , giảm thuế  cho nông dân. Chính sách nghiêm cấm chủ đất biến nông dân thành nông nô là nhằm bảo vệ người nông dân, bảo vệ lực lượng sản xuất chính của xã hội. Tất cả những chính sách đó làm cho nông nghiệp các triều đại thế kỷ X-XV phát triển, thâm canh tăng năng suất lao động. Thời Trần 1 năm cấy tới 4 vụ lúa, một sự thâm canh vượt xa các thời đại trong lịch sử nông nghiệp Việt Nam.

          Kinh tế thủ công nghiệp: các triều đại đều chú ý phát triển công , thương nghiệp. Các nghề thủ công cổ truyền dân tộc như gốm, dệt vải, làm đồ sứ, luyện sắt, đúc đồng, làm đồ đá, các đồ mỹ nghệ, khắc chạm gỗ đều được duy trì và phát triển. Thời Lý dệt được vải, lụa, đoạn nhiều mầu sắc khác nhau bền đẹp, hoa văn nhiều hoạ tiết. Năm 1044 vua Lý Thái Tông quyết định dùng gấm vóc trong nước để may lễ phục cho các quan, không nhập khẩu gấm của nước ngoài nữa. Đồ gốm sành, sứ dùng trong gia đình có chất lượng cao, nghệ thuật trang trí hoa văn trang nhã, hài hoà, khắc chạm chìm,  nổi, phong phú chủng loại. Đại Việt đã sản xuất được gạch ngói tráng men, ngói sứ trắng, gạch đẹp cỡ lớn có khắc niên hiệu đời Lý. Ở các triều đại nghề đúc tiền, đúc chuông, sản xuất vũ khí, công cụ sản xuất và làm đồ mỹ nghệ phát trỉên.  Đồ mỹ nghệ vàng, bạc đạt trình độ tinh xảo. Nhà nước nắm độc quyền đúc tiền, nghề khai thác mỏ để lấy khoáng sản phục vụ cho nghề thủ công mỹ nghệ.

          Nơi sản xuất thủ công nghiệp là các làng thủ công  ở nông thôn,  lâu đời hình thành làng nghề và bí quyết nghề nghiệp chuyên sản xuất một loại sản phẩm nổi tiếng như làng Bát Tràng (Hà Nội) chuyên sản xuất đồ gốm, làng Ma Lôi (Hải Dương) chuyên làm nón Ma Lôi. Ở các đô thị cũng hình thành những phường nghề. Kinh thành Thăng Long thời Trần  đựơc chia làm 61 phố phường, có phường làm nghề thủ công sản xuất hàng hoá, có phố chỉ làm và bán một loại hàng. Thăng Long thời Hậu Lê được gọi là Đông Kinh (Thanh Hoá là Tây Kinh ) chia làm 36 phố phường. Ngoài Hoàng thành còn có khu vực làm nghề thủ công và buôn bán. Phường Yên Thái làm giấy, phường Hàng Đào chuyên nhuộm màu điều (đỏ). Nghề khai thác mỏ sắt,  đồng , vàng, bạc thời Hậu Lê ngày càng phát đạt. Nhà nước có xưởng riêng đúc tiền, đóng tàu chiến, chế tạo vũ khí, sản xuất đồ dùng cho triều đình và quan lại. Xuất hiện những người thợ có tay nghề giỏi, lành nghề trong các xưởng nhà nước. Nhà Trần, nhà Hậu Lê đã chú ý thống nhất đơn vị đo lường, tiền tệ, kích cỡ của các loại hàng hoá như vải, giấy trong toàn quốc để trao đổi và thu thuể cho tiện lợi.

(Còn nữa)

CVL