• 0904 894 444
  • thukybientap@gmail.com
  • Tìm kiếm
  • thukybientap@gmail.com
  • 0904 894 444
TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN
  • Thời cuộc
    • Xây dựng Đảng
  • Văn hóa - Xã hội
    • Văn hóa đương đại
    • Văn hóa cổ truyền
    • Di sản
    • Tác phẩm – tác giả
    • Xã hội
    • Người nổi tiếng
    • Làm đẹp
  • Phát triển
    • Dân trí
    • Đời sống và phát triển
    • Khoa học – Công nghệ - Môi trường
    • Vui cười
    • Ẩm thực
    • Nghiên cứu
      • Bài viết
      • Công trình
    • Nông nghiệp - Nông thôn
      • Nông nghiệp và môi trường
      • Nông nghiệp sáng tạo
      • Nông nghiệp công nghệ cao
  • Diễn đàn
    • Mạn đàm
    • Sự kiện
  • Video
  • Video
  • Ảnh
  • Infographic
  • Emagazine
TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN
  • Thời cuộc
    • Xây dựng Đảng
  • Văn hóa - Xã hội
    • Văn hóa đương đại
    • Văn hóa cổ truyền
    • Di sản
    • Tác phẩm – tác giả
    • Xã hội
    • Người nổi tiếng
    • Làm đẹp
  • Phát triển
    • Dân trí
    • Đời sống và phát triển
    • Khoa học – Công nghệ - Môi trường
    • Vui cười
    • Ẩm thực
    • Nghiên cứu
      • Bài viết
      • Công trình
    • Nông nghiệp - Nông thôn
      • Nông nghiệp và môi trường
      • Nông nghiệp sáng tạo
      • Nông nghiệp công nghệ cao
  • Diễn đàn
    • Mạn đàm
    • Sự kiện
  • Video
    • Video
    • Ảnh
    • Infographic
    • eMagazine
  • Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh
  • Đại tướng Võ Nguyên Giáp Đại tướng Võ Nguyên Giáp sống mãi trong lòng nhân dân!
  • GS. AHLĐ Vũ Khiêu, một tấm gương lao động không ngừng nghỉ
  • GS. Đào Duy Anh từ chí sĩ cách mạng yêu nước đến học giả lỗi lạc
Thứ 6, ngày 16 tháng 8, 2019, 8:36:21 Chiều
Quốc Khánh 2/9
img

Văn hóa - Xã hội

Bên dòng Sào Khê

  • Phan Anh
  • 19:04 04/08/2023

Đã không ít lần đến Cố đô nhưng lần nào cũng vậy, lòng không khỏi bâng khuâng, thích thú ngắm nhìn và suy ngẫm về bốn chữ “Bắc môn tỏa thược” (Cửa Bắc khép lại) trên nóc cổng chính vào đền vua Đinh Tiên Hoàng. Bốn chữ này thật ý nghĩa, thâm sâu cao độ.

1. Cố đô Hoa Lư, non xanh nước biếc như tranh họa đồ

          Nhìn trên bản đồ hình chữ S thì dải đất Ninh Bình có hình dạng giống như chú rùa đang bơi ngửa mà đầu của nó chính là vùng đất Kim Sơn. Chú rùa ấy đang vươn cổ xuống nhìn về biển Đông ở phía cửa Đáy. Và trên lưng rùa đó Cố đô Hoa Lư và thành phố Tam Điệp nằm ở khoảng giữa của mai rùa. Thân rùa ấy, đặc biệt là vùng đất Hoa Lư là một vùng đất cổ. Vùng đất cổ đó, trước đây, cách ngày nay khoảng từ 170 triệu đến 300 triệu năm từng nằm ở tâm điểm của những lần biển thoái, biển tiến trong suốt quá trình vận động tạo núi khiến cho thềm lục địa được nâng lên làm các dãy núi đá vôi nhô cao lên trên mặt biển và kết hợp với phù sa bồi đắp của hệ thống sông Hồng đã để lại kết quả là huyện Hoa Lư nói riêng và cả tỉnh Ninh Bình nói chung đã chuyển từ một vụng biển trở thành một phần của đồng bằng châu thổ màu mỡ với cảnh sắc non xanh nước biếc kỳ tú tựa như một Vịnh Hạ Long trên cạn. Chẳng tin thì những dấu tích của biển hàng trăm triệu năm trước vẫn còn lưu lại sờ sờ ra đấy mà bằng chứng chính là các chân núi đá vôi từng bị sóng mặn bào mòn, khoét sâu tạo thành các hình vòm nhẵn thín duyên dáng bên những dòng nước khiến không ít người phải bất ngờ sửng sốt trước sự kỳ công của tạo hóa.

          Chưa hết, những dãy núi đá vôi từ mặt biển nhô lên ở Hoa Lư ấy gặp phải sự tác động của tiết trời với những nắng mưa theo mùa mà có sự phân hóa mạnh mẽ để làm thành cả một miền núi đá kỳ thú mang những đặc trưng của miền nhiệt đới, khác lạ so với những núi đá vôi nơi xứ lạnh trời Âu. Những núi đá vôi ở Hoa Lư bị thời tiết nóng lạnh thay đổi liên tục giữa ngày và đêm, nhất là khi mùa hè, trải qua hàng trăm triệu năm khiến đá núi bị co giãn và nứt nẻ. Không những thế, những trận mưa rào bao đời thi nhau tuôn nước xuống, tràn qua các vết nứt, bào mòn các khe đá làm thành những hang những động. Hàng ngàn khối nước mưa cưa trời ấy mang theo trong mình các hợp chất của a xít và tích tụ trong ruột núi; len lỏi qua các khe các kẽ ngấm ngầm đục phá lòng núi để tạo thành các dòng sông ngầm với hàng ngàn thạch nhũ muôn hình muôn vẻ hết sức diệu kỳ. Các dòng sông ngầm cùng những hang động với muôn ngàn thạch nhũ lúc ẩn lúc hiện; quanh co giữa bóng đêm dày đặc, thăm thẳm của ruột núi mặc sức cho con người khám phá và thả trí tưởng tượng để gọi tên. Và những dãy núi đá vôi ấy sừng sững, nối đuôi nhau, bao quanh Hoa Lư làm thành bức tường thành khổng lồ vừa giống như những pháo đài cổ lại vừa giống như những cột chống trời mà làm nên hồn thiêng sông núi.

1-cong-vao-den-tho-vua-dinh-tien-hoang-voi-bon-chu-bac-mon-toa-thuoc-1691150292.jpg
Cổng vào đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng với bốn chữ Bắc môn tỏa thược

          Song hành bên những núi đá trên đất Hoa Lư là những dòng sông, con suối hay mặt hồ mênh mang nước biếc uốn lượn quanh co qua các đồng lúa khiến cho cố đô hiện lên trong mắt người qua giống như một bức bích họa khổng lồ mà tạo hóa đã dày công bày đặt trên đất Ninh Bình. Những núi cao núi thấp với muôn dáng ngàn vẻ khi thì dựng đứng bên mép sông, lúc lại chênh chao giữa mặt hồ êm đềm, yên ả; đêm ngày soi bóng xuống mặt nước lung linh kỳ ảo dễ làm người ta liên tưởng đến những lâu đài tráng lệ chỉ gặp trong các truyện cổ tích và gợi nên vẻ đẹp muôn vàn của núi hoa sông gấm. Bởi thế, gặp khi trời đẹp, cảnh trí của non nước cố đô hiện ra như một bữa tiệc thị giác bày đặt giữa mênh mang đất trời để dâng hiến cho mọi người thưởng ngoạn. Tỉ như những buổi sáng mùa thu khắp hầu trên các dòng sông uốn lượn dưới các chân núi là sắc màu tím hồng bạt ngàn của hoa súng vươn lên từ mặt nước trong xanh giữa bốn bề vách núi tĩnh lặng, trong mênh mông biển vàng của mùa lúa chín hay trong buổi sớm mai của một ngày mùa đông bên các sườn núi ta thấy chờn vờn giữa hàng vạn cỏ cây xanh biếc những làn hơi mỏng mảnh bốc lên giống một lớp sương sa mờ mờ ảo ảo hoặc trong buổi chiều hôm, khi ánh tà dương tỏa trên các đỉnh núi, chiếu vào các vách đá những tia sáng lung linh, lóng lánh tựa như thiếp vàng. Cứ thế, mê mải ngắm nhìn phong cảnh non nước cố đô trong ta không khỏi nhớ lại câu thơ của cụ Nguyễn Du để biết được thế nào là “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”. Cảnh và thơ sao giống nhau đến vậy. Quyến rũ đến nao lòng.

Sông nước Hoa Lư mênh mênh mang mang, dòng trong văn vắt in bóng mây trời. Núi non cố đô trùng trùng điệp điệp, vách dựng thâm trầm chở che bốn phương. Sông núi cứ thế mà song hành, quấn quýt duyên dáng bên nhau; nước non hòa mình xuyên chảy cùng nhau; giang sơn thương yêu nâng đỡ cho nhau mà dệt thêu thành sơn hà gấm vóc, núi sông kỳ tú. Thế đấy, non xanh nước biếc Hoa Lư là vậy. Chốn sơn thủy hữu tình tựa chốn bồng lai vào hàng độc nhất vô nhị dưới trời Nam. Phải chăng non nước ấy là sự ưu ái riêng của tạo hóa. Chẳng thế, mỗi khi đến với cố đô được bồng bềnh trên chiếc thuyền con, nhẹ khua mái chèo lướt trên nước biếc; ngắm nhìn mênh mông hoa súng; thả hồn giữa không gian bao la của chập chùng non nước, trời mây đẹp như tranh vẽ ta không khỏi thích thú, ngất ngây, mê mẩn. Đắm chìm trong không gian kỳ ảo như thế lòng ta lại không khỏi nhớ đến những vần thơ hết lời tụng ca non nước ấy của vua Trần Nhân Tông “Tứ biên sơn nhiễu thủy hồi hoàn/ Sơn thủy như đồ cảnh tự nhiên” (Non nước quanh co bốn mặt vây/ Thiên nhiên bức họa diệu kỳ thay); của vua Trần Thái Tông “Thủy thức Bồng Lai nguyên bất viễn/ Thung dung tuế nguyệt độn phàm trần” (Đến đây mới biết cảnh tiên chốn Bồng Lai đâu có xa/ Ngày tháng thong dong xa lánh cõi phàm trần) hoặc như câu thơ chất chứa tình ý của Tĩnh Đô Vương – Chúa Trịnh Sâm: “Sất luyện oanh hồi xuyên thủy động/ Trùng tiêu ngập nghiệp trĩ sơn quan” (Dòng nước xuyên qua động trông như tấm lụa trắng vòng quanh/ Núi cao sát tầng mây như cửa ải bằng đá). Thế mới hay non xanh nước biếc của cố đô Hoa Lư không chỉ bây giờ mà đã bao đời nay đã được lọt vào mắt xanh của các đấng quân vương hay chữ để trở thành một nguồn thi hứng dạt dào, bất tận.

2. Mỹ cảm dân gian về vua Đinh, vua Lê và Thái hậu Dương Vân Nga

          Non xanh nước biếc của Hoa Lư không chỉ là nguồn thi hứng dồi dào mà còn là một vùng đất của những huyền thoại, nhất là những truyện kể về các vị anh hùng lỗi lạc của dân tộc. Điều ấy có lẽ cũng chẳng lạ. Trên dải đất hình chữ S này mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông thường thì chỗ nào chẳng ít nhiều gắn với những câu chuyện kể về các sự tích chẳng lập làng, dựng nước thì cũng giữ nước. Cho nên cố đô trên đất Ninh Bình những sơn kỳ thủy tú đã làm thành nơi địa linh để vừa là nơi sinh nhân kiệt cũng vừa là nơi tụ hội của những anh tài kiệt xuất. Bởi thế những Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành, Dương Vân Nga cùng có mặt trên đất Hoa Lư giống như một định mệnh, chẳng thể nào khác được. Dường như, hùng khí linh thiêng của gấm vóc non sông đã hun đúc để sinh ra những con người vĩ đại và chính những con người vĩ đại ấy lại làm rạng rỡ núi sông. Bộ ba nhân vật lịch sử Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành, Dương Vân Nga đã được ghi tạc vào những trang vàng chói lọi của sử lịch sử dân tộc và còn được lưu truyền, trường tồn trong tâm thức nhân dân bằng một nỗi niềm mỹ cảm đặc biệt của dân gian.

2-den-tho-vua-dinh-tien-hoang-1691150411.JPG
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng

          Xưa nay công việc ghi chép lịch sử ở nước ta từng song hành hai cách ghi chép. Đó là cách ghi chép của nhà nước mà ta vẫn thường gọi là chính sử và cách ghi chép của dân gian mà ta vẫn hay gọi là dã sử, kiểu như những truyền thuyết hoặc giai thoại. Hình như, do hoàn cảnh đặc thù với những cuộc chiến diễn ra liên tục trong suốt trường kỳ dựng nước và giữa nước kèm theo những mưu đồ tàn phá văn hóa phương Nam để đồng hóa dân tộc ta của người phương Bắc mà các tư liệu chính sử của nước ta còn lại rất ít, thậm chí có những thời kỳ được ghi chép lại rất mờ nhạt, các nhà viết sử phải dùng tư liệu của dân gian để biên soạn lại. Bởi vậy cách ghi chép của hai dòng chính sử và dã sử có khi giống nhau nhưng cũng có khi vênh nhau trước một đối tượng lịch sử. Điều ấy cũng dễ hiểu. Mỗi cách ghi sử chịu sự chi phối của một tư tưởng nhất định. Chính sử chịu ảnh hưởng của người cầm quyền còn dã sử thì theo quan điểm của nhân dân. Bởi thế, theo dòng dã sử ta sẽ nhận ra trên cơ sở “cái lõi của sự thật lịch sử” sẽ có những phần được “thơ và mộng” theo lý tưởng và tâm tình thiết tha của nhân gửi gắm vào trong đó. Và cái phần “thơ và mộng” trong dã sử ấy chính là những nỗi niềm mỹ cảm của nhân dân dành cho các nhân vật lịch sử mà mình phản ánh; đó là thái độ, tình cảm, cách ghi nhận, đánh giá của nhân dân dành cho mỗi một nhân vật lịch sử.

          Mở đầu cho bản hùng ca của Hoa Lư là thủ lĩnh cờ lau Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng Đế. Tuổi thơ của nhà vua được tắm trong những hào quang của huyền thoại. Trước tiên là sự ra đời khác thường của nhà vua. Dân gian bảo rằng Đinh Bộ Lĩnh Lĩnh là con của rái cá thần. Chẳng là bà Đàm Thị (mẹ Đinh Bộ Lĩnh) ngủ trên tảng đá, khi tỉnh giấc thấy con rái cá hình nhân nằm bên cạnh vắt chân qua bụng rồi mang thai. Bà mang thai một cách khác lạ, mười bốn tháng mới sinh nở. Khi Đinh Bộ Lĩnh vừa sinh ra đã ngồi dậy được như đứa trẻ lên ba; dung mạo tuấn tú, oai vệ khác thường. Đến năm lên bốn tuổi Đinh Bộ Lĩnh có biệt tài bơi lặn và biết mò cua, bắt ốc nuôi mẹ, nuôi thân. Cha mẹ mất sớm, bị mồ côi, ở với chú, Đinh Bộ lĩnh đi chăn trâu và luôn cầm đầu bọn trẻ chơi trò trận giả, dùng cờ lau đánh trận. Có lần Đinh Bộ Lĩnh cho mổ trâu của chú để khao quân và cắm đuôi trâu xuống lỗ nẻ để nói dối chú là trâu chui xuống lỗ nẻ. Đặc biệt, tuổi trẻ của Đinh Bộ Lĩnh còn gắn với câu chuyện tìm được miệng rồng ở dưới đáy sông Đại Hoàng để đặt xương cha và câu chuyện trả thù của tên địa lý người Tàu hoặc như câu chuyện kéo lưới ở sông Giao Thủy và nhặt được viên ngọc đế vương rồi sơ ý để sứt. Tất cả những hào quang huyền thoại đó chính là thái độ, quan niệm của nhân dân với Đinh Tiên Hoàn Đế. Nhân dân muốn nhà vua, người anh hùng của mình phải tài giỏi một cách siêu việt, hơn người bình thường. Bởi vậy, nhân dân đã để cho Đinh Bộ Lĩnh là con của rái cá thần chứ không phải là con của ông Đinh Công Trứ. Quá trình mang thai, sinh nở của bà Đàm Thị cũng vô cùng đặc biệt. Thời gian mang thai của bà gấp rưỡi thời gian mang thai của người bình thường. Và quá trình lớn lên và trưởng thành của Đinh Bộ Lĩnh cũng khác người. Không những thế sự nghiệp của Đinh Bộ Lĩnh cũng được nhân dân giải thích bằng những câu chuyện mang màu sắc phong thủy, ứng nghiệm với những điềm báo của thần linh. Tất cả những hào quang huyền thoại đó đã phản ánh rất rõ tình cảm kính trọng, yêu quý của nhân dân với Đinh Bộ Lĩnh, vị vua tài ba của đất Việt. Và đó cũng chính là cái chất “thơ và mộng” được dân gian lý tưởng hóa gửi gắm vào trong truyền thuyết về ông.

3-nghi-mon-ngoai-den-vua-le-dai-hanh-1691150453.jpg
Nghi môn ngoại đền vua Lê Đại Hành

          Sau Đinh Tiên Hoàng Đế, truyền thuyết Hoa Lư cũng kể khá nhiều về vị vua của vương triều thứ hai trên đất cố đô. Đó là vua Lê Đại Hành hay tên gọi khác là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Đặc biệt là mối lương duyên của ông với Thái hậu Dương Vân Nga. Vua Lê Đại Hành không phải người Hoa Lư, ông là người Thanh Hóa. Nhưng sự nghiệp của ông gắn với đất Hoa Lư. Ông vốn là một tướng tài của nhà Đinh, từng theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân thống nhất đất nước và được phong làm Thập đạo tướng quân (Tổng chỉ huy quân đội). Sau này, khi được truyền ngôi ông còn tiếp tục bình Chiêm, dẹp Tống khiến cho cả Man Di, Hoa Hạ đều phải sợ hãi và đưa vị thế của Đại Cồ Việt lên một tầm cao mới. Là một vị vua tài giỏi, có công lao to lớn với đất nước nhưng dưới mắt các sử gia phong kiến Lê Đại Hành luôn bị chê cười. Mối tình của ông với Dương Vân Nga không được các sử gia phong kiến đặt trong bối cảnh thù trong giặc ngoài khiến vận mệnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc để xem xét một cách khách quan. Bởi vậy Ngô Sỹ Liên mới viết: “Đại Hành thông dâm với vợ vua, rồi nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu thì không còn có lòng hổ thẹn gì nữa. Lấy lối ấy truyền lại đời sau, chính con mình lại bắt chước mà gian dâm quá độ, đến nỗi mất nước, há chẳng phải Đại Hành gây mối họa loạn ư” (Đại Việt sử ký toàn thư) hoặc “Lê Đại Hành là một ông vua mở ra cơ nghiệp mà làm việc ấy xem như cầm thú, mọi rợ. Hơn nữa miếu hiệu Đinh Tiên Hoàng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, thế mà Lê Đại Hạnh lại công nhiên lấy hiệu vua cũ đặt tên cho vợ mình là không biết kiêng nể quá mức. Chép vào sử sách cho nghìn thu chê cười” (Đại Việt sử ký toàn thư). Nhưng trái lại với quan điểm của các nho gia, nhân dân đánh giá Lê Đại Hành và Dương Vân Nga một cách khách quan hơn để từ đó thấy được tài năng và tầm vóc, công lao với dân tộc của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Để đồng tình và ủng hộ mối oan tình ấy truyền thuyết “Sự tích sông Vân Sàng” có đoạn kể: khi đoàn thuyền của Lê Hoàn đại thắng quân Tống trở về, Lê Hoàn và Dương Thái Hậu bước lên thuyền rồng thì tất cả nhân dân đứng đấy đồng thanh hô to “Thánh Thượng Vạn Tuế! Hoàng Thượng, Hoàng hậu vạn tuế, vạn tuế …”. Không những thế, Khi thuyền rồng chở Lê Hoàn và Dương Vân Nga đi trên sông, giữa lúc trời đang nắng to bỗng có đám mây ngũ sắc bay theo thuyền nhà vua. Người ta còn trông thấy trong đám mây ấy có đôi rồng đang quyện vào nhau. Và cho rằng đó là điềm trời linh ứng, che chở cho thiên tử. Có lẽ nhân dân là người rất đồng cảm, ủng hộ với mối tình éo le của Lê Đại Hành với Dương Vân Nga; thấy được sự hy sinh vô bờ bến vì đại cuộc của Thái hậu dành cho xã tắc. Bởi thế, trong dân gian ở đây còn lưu truyền những câu hát ru để ghi nhận công lao, thấu hiểu và chia sẻ với Thái hậu họ Dương: “Nín đi thôi, nín đi thôi/ Một vai gánh vác một đôi sơn hà/ Vạc Đinh đã trở về Lê/ Nàng Dương chăn gối lại về chính cung” hay “Hai vai gồng gánh hai vua/ Hai triều, Hoàng hậu tu chùa Am tiên/ Theo chồng đánh Tống bình Chiêm/ Có công với nước, vô duyên với đời” ... Hoặc như cũng có giai thoại như thể để chiêu tuyết, minh oan cho Hoàng Thái hậu. Giai thoại kể rằng: Một ngày đẹp trời, Lê Hoàn đến thăm nhà một anh lính họ Dương để kết tình quân dân và gặp Dương Vân Nga. Đôi trai tài gái đã sớm “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Trong lúc đó, Ðinh Bộ Lĩnh là hoàng đế ở Hoa Lư. Ông biết Dương Vân Nga rất đẹp nên để mắt tới và lấy về làm vợ. Sau khi lấy Dương Vân Nga, Ðinh Bộ Lĩnh mới biết vợ mình chính là người yêu của Lê Hoàn vì thế không ngừng thử thách lòng trung thành của vị tướng này. Lê Hoàn cũng không phụ lòng Ðinh Bộ Lĩnh, trước sau vẫn thể hiện sự trung quân. Từ đó Đinh Bộ Lĩnh tin tưởng trao cho cả mười đạo quân cho Lê Hoàn. Dù tin Lê Hoàn nhưng Ðinh Bộ Lĩnh cũng không muốn ông ở gần ái hậu của mình cho nên cử Lê Hoàn ra biên ải. Đây cũng là chứng cứ ngoại phạm khi Ðinh Bộ Lĩnh và Ðinh Liễn bị Ðỗ Thích giết. Sau khi Đinh Bộ Lĩnh chết, vì lo cho đất nước thù trong giặc ngoài, vì phải bảo vệ con và chính bản thân mình nên Dương Vân Nga đã mời Lê Hoàn về kinh đô để giúp việc, nhường ngôi và lấy làm chồng. Tất cả những điều đó cho thấy, mối quan hệ của Dương Vân Nga và Lê Hoàn là một mối quan hệ rất sâu sắc. Đó không chỉ là mối quan hệ Hoàng hậu và bề tôi. Dù chỉ là một giai thoại nhưng nhân dân đã tỏ ra thấu hiểu những công lao, suy nghĩ, tính toán, tình cảm của Dương Vân Nga. Có lẽ vì thấu hiểu như vậy nên bao đời nay người Hoa Lư vẫn thờ Dương Vân Nga chung với Lê Hoàn, chỉ đến ngày giỗ của Ðinh Tiên Hoàng người ta mới thỉnh Dương Vân Nga sang đền thờ ông một đêm rồi sáng hôm sau lại đưa bà trở lại đền thờ vua Lê Đại Hành.

3. Bên dòng Sào Khê, những dấu xưa của một thời in bóng

Kinh đô xưa nay được xem là trung tâm phát triển về mọi mặt của mỗi quốc gia, nhất là về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Bởi vậy, dựa vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tùy theo quan điểm riêng của người đứng đầu đất nước mà mỗi triều đại lại lựa chọn cho mình một vùng đất để định đô nhằm mục tiêu xây dựng đất nước bền vững. Trong lịch sử dựng đô của nước ta tính đến hết thế kỷ thứ X và những năm đầu của thế kỷ thứ XI, ta thường thấy người đứng đầu các triều đại chọn đất đóng đô bằng các tiêu chí: chọn vùng đất có ảnh hưởng đối với mình hoặc chọn quê hương mình. Cho nên chúng ta có các kinh đô: Phong Châu của vua Hùng; Cổ Loa của Thục Phán, Ngô Quyền; Mê Linh của Hai Bà Trưng; Vạn Xuân của Lý Nam Đế; Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành … Trong số các nơi ấy, cố đô Hoa Lư từng là một kinh đô rất có ý nghĩa. Đó là kinh đô khép lại một ngàn năm Bắc thuộc và mở ra một thời kỳ độc lập, phát triển mới cho đất nước.

4-den-tho-vua-le-dai-hanh-1691150490.jpg
Đền thờ vua Lê Đại Hành

Hoa Lư là nơi giao thoa của hai không gian văn hóa: sông Hồng và sông Mã; nơi giao thoa của hai không gian xã hội: Việt và Mường; nơi giao thoa của hai không gian địa mạo: núi đồi và vùng đồng bằng trước núi. Từ trên cao nhìn xuống Hoa Lư, người ta thấy núi đá bao quanh tứ phía, chạy hình vòng cung, nhìn chẳng khác gì một bức trường thành thiên nhiên che chắn. Đất ấy có núi trong sông, có sông trong núi; các dãy núi đá dựng đứng, vào ra chỉ có độc đạo; căn cứ thủy bộ thuận tiện; sau lưng là rừng, trước mặt là đồng bằng, xa hơn nữa là biển. Đây là một địa thế hiểm yếu: “tiến khả dĩ công, thoát khả dĩ thủ” (tiến có thể đánh, lui có thể giữ). Bởi thế cả Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đều chọn Hoa Lư làm kinh đô. Kinh đô ấy thực chất là một quân thành. Cứ theo như lời của Tống Cảo (sứ thần nhà Tống) nhận xét: “Hoa Lư thị Hán Trường An” (Kinh thành Hoa Lư có thể sánh ngang với kinh đô Trường An của nhà Hán ở phương Bắc) ta sẽ thấy được đương thời quân thành Hoa Lư khá phát triển và đã đáp ứng được vai trò của một kinh đô trong điều kiện nhất định của một nhà nước phong kiến còn non trẻ. Trên thực tế kinh đô Hoa Lư đã phát huy tác dụng to lớn ở thế kỷ X trong việc ngăn chặn các thế lực chống đối muốn tiến đánh kinh thành. Và cũng từ kinh đô Hoa Lư vua Đinh, vua Lê đã thành công vang dội trong việc nhiều lần đem quân chinh phạt Chăm pa. Đặc biệt, cái thế “thủ hiểm” ấy đã giúp cho Lê Hoàn vững lòng, tự tin khi đem quân chặn đánh giặc Tống ở phía Bắc và chiến thắng lẫy lừng trên sông Bạch Đằng năm 981.

Tuy nhiên địa thế của Hoa Lư chỉ phát huy tác dụng trong thời loạn và khi thế và lực của nhà nước chưa đủ mạnh. Ngược lại, khi thế và lực của đất nước đã đủ vững mạnh thì cái ưu điểm “tiến khả dĩ công, thoát khả dĩ thủ” lại trở thành cái hạn chế, gây trở ngại cho việc xây dựng và phát triển phát đất nước. Hẳn là những thế mạnh và thế yếu của Hoa Lư các nhà chính trị - quân sự tài ba như Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn không phải không biết. Chỉ có điều, thế và lực của các vương triều khi đó chưa đủ mạnh nên các ông vẫn phải dựa vào sự hiểm yếu của tự nhiên để tồn tại. Trong điều kiền lịch sử đương thời như vậy, việc lựa chọn xây dựng kinh đô ở Hoa Lư vẫn là sự lựa chọn số một của hai nhà Đinh, Lê. Có lẽ sau này, khi đất nước phát triển đến một tầm cao mới, đủ tự tin nên Lý Công Uẩn đã cho rời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng Long – Hà Nội) để xây dựng kinh đô mới, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước.

          Thành cổ Hoa Lư bây giờ không còn nữa, những trầm tích của cố đô hẳn vẫn còn nằm yên trong lòng đất và những bức trường thành đứt đoạn, bị sạt lở cùng những dãy núi khổng lồ sừng sững giữa trời xanh như thể những chứng nhân muôn đời cho miền đất cổ. Giờ đây dấu xưa giá trị nhất chủ yếu tập trung ở hai ngôi đền thờ: Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Nghe nói đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng là một hình ảnh thu nhỏ của kinh thành Hoa Lư. Theo ký ức dân gian truyền lại, năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, nhân dân trong vùng cố đô đã góp công chung sức xây dựng hai ngôi đền để tưởng nhớ công lao của hai đức vua và những người cố công với đất nước. Trải qua năm tháng, hai ngôi đền đã được trùng tu nhiều lần nhưng cơ bản vẫn giữ diện mạo và kiến trúc ban đầu. Kiến trúc của cả hai ngôi đền đều làm theo kiểu nội công ngoại quốc, lối vào lát gạch hình chữ vương, các hạng mục công trình của hai ngôi đền làm đối xứng nhau theo một trục dài, mô phỏng lại cung điện của nhà vua khi xưa. Hai ngôi đền ẩn hiện dưới những tán cây cổ thụ xanh tốt nhìn rất cổ kính. Trong đền còn giữa được nhiều tượng cổ tạc vương tướng nhà Đinh, trong đó có tượng vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành và Thái hậu Dương Vân Nga. Ngoài ra hai ngôi đền đều được trang trí trạm khắc rất đẹp mang dấu ấn nghệ thuật của thời Hậu Lê với những hình linh vật và muông thú, đặc biệt là hình rồng mẹ rồng con. Điều đáng chú ý là cả hai đền đều giữ được nhiều đồ thờ quý hiếm, đặc biệt là những long sàng bằng đá xanh nguyên khối cách đây khoảng trên bốn trăm năm được chạm khắc rất tinh xảo: hình rồng, dạ xoa, thao thiết, phô thủ, sư tử và các muông thú. Những long sàng cổ này đều đã được nhà nước công nhận là bảo vật quốc gia vào năm 2017. 

          Đã không ít lần đến cố đô nhưng lần nào cũng vậy, lòng không khỏi bâng khuâng, thích thú ngắm nhìn và suy ngẫm về bốn chữ “Bắc môn tỏa thược” (Cửa Bắc khép lại) trên nóc cổng chính vào đền vua Đinh Tiên Hoàng. Bốn chữ này thật ý nghĩa, thâm sâu cao độ. Khi tế nhị với người nhà Tống thì người ta bảo là nhắc nhở đề phòng gió mùa Đông Bắc (gió độc) nhưng cũng ngụ ý nhắc nhở nỗi sợ truyền kiếp của nhà Tống được ghi khắc trên Vạn Lý Trường Thành ở bên Trung Hoa. Còn đối với người dân Đại Cồ Việt thì đây là một lời nhắc nhở, cảnh báo tựa di huấn của nhà vua với quân sĩ: Đề phòng phương Bắc. Ngẫm nghĩ cho đến tận ngày nay, nghìn năm đã đi qua mà lời nhắc nhở của vua Đinh vẫn còn nguyên ý nghĩa.

Bắc môn tỏa thược Cố đô Hoa Lư Ninh Bình Đinh Tiên Hoàng
  • Chia sẻ Facebook
  • Chia sẻ Twitter
  • Chia sẻ Pinterest
In
Cùng chủ đề
Những bức thư cảm ơn - Ghi nhận tấm lòng của nghệ nhân Hoàng Xuân Mai - thủ nhang Đền Rừng Cần biết
Những bức thư cảm ơn - Ghi nhận tấm lòng của nghệ nhân Hoàng Xuân Mai - thủ nhang Đền Rừng

Trong những ngày cả nước hướng về Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, Đền Rừng (Bồ Đề, Hà Nội)...

Hà Nội: Đền Rừng và chùa Đông Các Tự trao 548 suất cơm cho bệnh nhân giữa trưa hè “đổ lửa” Cần biết
Hà Nội: Đền Rừng và chùa Đông Các Tự trao 548 suất cơm cho bệnh nhân giữa trưa hè “đổ lửa”

Ngày 3/6/2025, trong tiết trời oi nồng như muốn nung chảy từng thớ gạch ngoài sân bệnh viện, hơn 548...

Vươn lên từ bờ vực "thất truyền": Hát Dô Liệp Nghĩa Văn hóa - Xã hội
Vươn lên từ bờ vực "thất truyền": Hát Dô Liệp Nghĩa

Hát Dô là loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc của vùng Lạp Hạ, ven sông Tích (nay là...

Mới cập nhật
Du lịch cộng đồng - Mô hình hiệu quả bảo tồn và lan tỏa văn hóa dân tộc thiểu số

Du lịch cộng đồng - Mô hình hiệu quả bảo tồn và lan tỏa văn hóa dân tộc thiểu số

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), việc bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số đang trở thành nhiệm vụ cấp bách. Áp lực từ đô thị hóa nhanh, biến đổi khí hậu và nhu cầu phát triển kinh tế đặt ra thách thức lớn đối với các cộng đồng miền núi.

5 giờ trước Văn hóa đương đại

Nữ chủ xe Tây Nguyên “chốt” không do dự VinFast VF 7 vì mê kiểu dáng thể thao và cảm giác lái tuyệt vời

Nữ chủ xe Tây Nguyên “chốt” không do dự VinFast VF 7 vì mê kiểu dáng thể thao và cảm giác lái tuyệt vời

Cảm giác lái thể thao, thiết kế chất đi kèm chi phí vận hành tiết kiệm là những ưu điểm giúp VinFast VF 7 không có đối thủ trong phân khúc. Đặc biệt, tháng 12/2025 là thời điểm tốt nhất để sở hữu mẫu C-SUV Việt.

6 giờ trước Cần biết

Tinh thần Ngày toàn quốc Kháng chiến 19/12/1946 và giá trị văn hóa trường tồn của dân tộc

Tinh thần Ngày toàn quốc Kháng chiến 19/12/1946 và giá trị văn hóa trường tồn của dân tộc

Trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, có những thời khắc lịch sử không chỉ làm thay đổi vận mệnh đất nước mà còn để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tinh thần của các thế hệ mai sau. Một trong những mốc son tiêu biểu ấy là Ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 là thời điểm toàn dân tộc đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cho cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang.

6 giờ trước Diễn đàn

Diễn đàn Chuyển đổi số ngành Công Thương 2025:  Định hình tầm nhìn chuyển đổi kép đến năm 2030

Diễn đàn Chuyển đổi số ngành Công Thương 2025: Định hình tầm nhìn chuyển đổi kép đến năm 2030

Ngày 04/12, tại Hà Nội, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công thương đã tổ chức Diễn đàn Chuyển đổi số ngành Công thương năm 2025 với chủ đề “Chuyển đổi kép: Số hóa chuỗi cung ứng – Xanh hóa tăng trưởng”. Diễn đàn diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang tăng tốc ứng dụng công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng xanh, đặt ra yêu cầu ngành Công thương phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, hiện đại hóa chuỗi giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

8 giờ trước Phát triển

Hội CCB Phường Ô Chợ Dừa tổng kết công tác Hội năm 2025, kỷ niệm 81 năm thành lập QĐND Việt Nam

Hội CCB Phường Ô Chợ Dừa tổng kết công tác Hội năm 2025, kỷ niệm 81 năm thành lập QĐND Việt Nam

Sáng 4/12/2025, Hội Cựu chiến binh (CCB) Phường Ô Chợ Dừa tổ chức Hội nghị tổng kết công tác Hội và phong trào thi đua “CCB gương mẫu” năm 2025; đồng thời kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2025) và 36 năm Ngày thành lập Hội CCB Việt Nam (06/12/1989 – 06/12/2025).

1 ngày trước Phát triển

Văn hóa Việt Nam hướng tới tầm vóc mới: Phát động sáng tác “Sống mãi với thời gian”

Văn hóa Việt Nam hướng tới tầm vóc mới: Phát động sáng tác “Sống mãi với thời gian”

Bộ VHTTDL công bố bình chọn “50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu sau ngày đất nước thống nhất” và phát động sáng tác giai đoạn 2026 - 2030.

1 ngày trước Phát triển

Hà Tĩnh với hành trình tri ân Đại thi hào Nguyễn Du (Bài 1): Người con ưu tú của đất Hồng Lam

Hà Tĩnh với hành trình tri ân Đại thi hào Nguyễn Du (Bài 1): Người con ưu tú của đất Hồng Lam

Nguyễn Du – Người con ưu tú của đất Hồng Lam, Danh nhân văn hóa thế giới, sẽ mãi là niềm tự hào, biểu tượng rực rỡ của trí tuệ và tâm hồn Việt Nam.

1 ngày trước Văn hóa - Xã hội

Nghệ nhân Đỗ Thị Thanh Hồi – Thanh đồng trẻ tận tâm gìn giữ và lan tỏa văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu

Nghệ nhân Đỗ Thị Thanh Hồi – Thanh đồng trẻ tận tâm gìn giữ và lan tỏa văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu

Những năm gần đây, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại – ngày càng lan tỏa sâu rộng trong đời sống người Việt. Trên dòng chảy kế thừa ấy, không chỉ những nghệ nhân “cây cao bóng cả”, mà sự góp mặt của lớp nghệ nhân trẻ mang lại sức sống mới cho không gian thực hành tín ngưỡng.

1 ngày trước Văn hóa - Xã hội

Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phổ biến các văn bản mới về khoa học và công nghệ

Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phổ biến các văn bản mới về khoa học và công nghệ

Sáng 4/12/2025, tại hội trường tầng 4 Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Lô D20, ngõ 19 phố Duy Tân, phường Cầu Giấy, Hà Nội), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức chương trình phổ biến các văn bản mới về khoa học và công nghệ tới các hội thành viên, Liên hiệp Hội địa phương và các tổ chức KH&CN trực thuộc.

1 ngày trước Phát triển

Những lưu ý khi thuê địa điểm đặt văn phòng đại diện từ The Sentry

Những lưu ý khi thuê địa điểm đặt văn phòng đại diện từ The Sentry

Việc thuê địa điểm đặt văn phòng đại diện là một quyết định quan trọng, ảnh hưởng lớn đến hình ảnh và hoạt động kinh doanh. Trong bài viết này The Sentry sẽ điểm lại một số lưu ý khi bạn lựa chọn đặt văn phòng đại diện cho công ty.

1 ngày trước Cần biết

BÀI ĐỌC NHIỀU
Hóc Môn - Bà Điểm: Hành trình từ vùng đất giàu lịch sử đến khu đô thị - công nghiệp năng động của TP. Hồ Chí Minh
Hóc Môn - Bà Điểm: Hành trình từ vùng đất giàu lịch sử đến khu đô thị - công nghiệp năng động của TP. Hồ Chí Minh
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Kim Loan và sự phát triển của đạo Mẫu
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Kim Loan và sự phát triển của đạo Mẫu
Sự tích con trâu
Sự tích con trâu
Tất tần tật về quy trình lĩnh thưởng xổ số mới nhất
Tất tần tật về quy trình lĩnh thưởng xổ số mới nhất
Công bố Hội đồng Quản lý và lãnh đạo Viện Nghiên cứu Văn hóa và Phát triển
Công bố Hội đồng Quản lý và lãnh đạo Viện Nghiên cứu Văn hóa và Phát triển
TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN

© TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN

Cơ quan chủ quản: Viện Nghiên cứu Văn hoá và Phát triển

Giấy phép hoạt động báo chí điện tử số 247/GP- BTTTT do Bộ TT&TT cấp ngày 07/5/2021 

Chủ tịch Hội đồng Biên tập: TS. Đinh Đức Thiện

Phó Chủ tịch Hội đồng Biên tập: Trần Thị Thu Thảo

Phó Tổng Biên tập: PGS. TS Phạm Hùng Việt

Phó Tổng Biên tập: Lại Đức Hồng

Tổng Thư ký Tòa soạn: Nhà báo Nguyễn Danh Hòa

Địa chỉ: Số 53 Phố Yên Lạc, Phường Vĩnh Tuy, TP. Hà Nội 

Hotline: 0915 323 789 - 0904 894 444 | Email: thukybientap@gmail.com

THÔNG TIN TÒA SOẠN - LIÊN HỆ QUẢNG CÁO