Nhìn qua mục lục của cuốn sách, người ta dễ dàng bắt gặp nhiều cây bút tên tuổi "quen mặt" của làng báo, làng văn Việt như: Nguyễn Thế Kỷ, Phạm Việt Long, Vũ Xuân Bân, Hồ Công Thiết, Trương Thành Sơn, Huỳnh Hồng Điệp, Kim Oanh Đào...Và cả những cây viết chuyên và không chuyên nhưng có chung một nỗi niềm với những miền quê yêu dấu của mình. Quê hương là tất thảy những gì thân thuộc bồi đắp đời sống vật chất và tinh thần của mỗi con người. Cũng vì thế chuyện làng quê của mỗi người cũng rất phong phú, đa dạng, muôn màu sắc và đều đáng trân trọng cả. Xuất phát từ mạch nguồn cảm xúc chân thực và chất liệu sống phong phú, những mẩu chuyện được đề cập trong "Chuyện làng quê" là những mảnh ghép để tạo nên một bức tranh làng quê Việt thấm đượm trữ tình.
Bức tranh quê sinh động, đa màu sắc đó, dễ dàng cảm thụ hơn khi ngay trong phần giới thiệu của Tiến sĩ, Nhà văn, Nhà báo Phạm Việt Long - Tổng Biên tập Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển đã khái quát hàng trăm tác phẩm riêng rẽ thành 3 nhóm chủ đề tư tưởng xuyên suốt: Khắc họa chân dung làng quê Việt thanh bình, dung dị, ấm áp nghĩa tình; Lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc; Xây dựng quê hương đổi mới, giầu đẹp, văn minh.
Theo Tiến sĩ Phạm Việt Long, mỗi làng quê đều gắn với những sản vật của đất quê đã nuôi sống con người và nuôi dưỡng tâm hồn con người, trở thành ký ức sâu sắc của mỗi người khi phải xa quê. Đậm đà nhất là những hoài niệm về các món ăn của nông thôn. Những món ăn quê đã nuôi dưỡng những con người nhà quê để họ tồn tại và phát triển. Ở những trang sách này, mô tả những món ăn dân dã, mà chỉ nhắc đến tên, cũng đã thấy ấm lòng: Cơm, Tương, Mắm, Rau má, Cá đồng, Rạm, Bánh khúc, Canh cua, Nấm mối, Da trâu khô gói giò, Lá lằng hoang dại, Sứa tươi, Dưa mùng muối chua, Rau mồng tơi, Me, Điều, Ốc bươu, Sim, Hoa gừng...Các bài viết về ẩm thực thường miêu tả kỹ vị ngon của món ăn, cách thức chế biến và những kỷ niệm ấm áp gắn liền với các món ăn ấy. Ngoài các món ăn phải gieo trồng, chăn nuôi, người quê còn được thiên nhiên ban tặng những món ăn tự nhiên, như con cá, quả sim, lá lằng…
Từ chất liệu sống thân thuộc với bao người là những món ăn quê được đề cập trong Chuyện làng quê, Tiến sĩ Phạm Việt Long phân tích: "Thực trạng ấy cho ta thấy một nền nông nghiệp tự cấp tự túc, người nhà quê tự nuôi sống mình bằng sản vật do chính mình tạo ra hoặc tận dụng của trời đất. Chính cái nguồn gốc tự cấp tự túc này làm nên bản tính chịu thương chịu khó, tự lực cánh sinh của người nhà quê. Dưới bàn phím của các tác giả, món ăn không còn là thứ ẩm thực thông thường, mà chứa đựng trong đó hồn quê. Bây giờ, cuộc sống thay đổi, nhiều món ăn đã lùi vào dĩ vãng, nhưng hơi ấm, vị bùi ngọt của các món ăn ấy vẫn in đậm trong ký ức con người. Để có các sản vật ấy, người nhà quê phải lao động cật lực. Trong nhiều bài viết, cảnh lao động ở nông thôn hiện lên mới sôi động, cuốn hút làm sao: Cầy cấy, gieo trồng, gặt hái, cất vó, úp nơm, làm hàng xáo, săn thú rừng, nướng cá, bắt sứa, làm mũ nan, hái cà phê… Mỗi loại hình lao động có một phương pháp riêng, nhưng đều thấm đẫm mồ hôi nước mắt của người nông dân, gợi cho người đọc sự biết ơn đối với những con người “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Qua những trang viết, dường như mọi âm thanh, mùi vị, mầu sắc của quê hương hiển hiện lên, thẩm thấu sâu vào cảm quan của người đọc...".
Cũng theo Tổng Biên tập Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển, trong môi trường nông thôn ấy, các bài viết đã làm nổi bật lên tính chất người nhà quê. Hầu như bài nào viết về cuộc sống nông thôn, cũng nói rằng quê minh nghèo lắm. Thế nhưng, qua các câu chuyện, người đọc nhận ra rằng, dù quê nghèo, người nhà quê không bao giờ chê quê, mà có một tình yêu đằm thắm, chung tình với quê hương. Người nhà quê ăn chắc mặc bền, cần cù, cam chịu, tình làng nghĩa xóm đằm thắm, nương tựa vào nhau mà đi lên trong cuộc sống đầy gian truân. Các tác giả phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong gia đình, làng xóm một cách chân thực, theo xu hướng lạc quan, có hậu. Thời đói khổ, cha mẹ nhịn cơm dành cho con cái. Xuất hiện những người luôn luôn nói dối “Ăn no rồi”, thực ra là nhịn miệng nhường chồng con. Các bậc cha mẹ luôn luôn hi sinh vì con, “cá chuối đắm đuối vì con”. Đói dài đói rạc, phải đi mót củ giong, xin nước luộc lòng của Hợp tác xã về cho qua bữa nhưng vẫn nhường nhau từng miếng ăn…
Trong ký ức của nhiều tác giả, có bao chuyện vui của tuổi thơ nơi làng quê thanh bình. Lắng nghe từ các trang sách, ta có thể cảm nhận được tiếng xạc xào tâm sự của các loài cây dân giã: xấu hổ, xuyến chi, bìm bìm, mần trầu, thài lài, cứt lợn…Ta cũng có thể cảm nhận được tiếng rao bán Cà rem và thấy hình ảnh những đứa trẻ háo hức đem dép nhựa cũ, vỏ đạn…ra đổi kem, kỷ niệm của tuổi thơ mà hầu hết chúng ta đều có. Từ các trang sách, cũng rộn lên tiếng cười của những đứa trẻ tinh nghịch làm giả rùa bằng mo cau để trêu bạn, tiếng kèn thổi bằng tổ sâu, tiếng bì bõm lội nước của mấy đứa trẻ bắt trộm cá. Cây ổi thì rung rinh khi có đứa bé trèo hái trộm quả…Thật bất ngờ, trong những kỷ niệm ấy, nhiều tác giả kết thúc bài viết bằng hình ảnh người chủ vườn, chủ ao tốt bụng, không những không trừng phạt đứa trẻ hái trộm ổi, câu trộm cá… mà còn cho quà, khuyên răn cẩn trọng kẻo ngã cây hoặc đuối nước.
Bên cạnh đó, dưới con mắt của một nhà báo, nhà văn luôn nhìn cuộc sống ở nhiều chiều cảm xúc và hiện thực cuộc sống, Nhà báo Phạm Việt Long cũng đã chỉ ra những mảng mầu xám trong Chuyện làng quê khi chỉ ra, một số bài đã nhìn thẳng vào sự thật để phê phán bằng ngôn từ nhẹ nhàng mà chí lý. Đó là tục nợ miệng – do sự bày vẽ cỗ bàn theo hủ tục chưa dứt được. Hoặc thói gian dối khi làm ăn buôn bán. Sự biến dạng về môi trường khiến chúng ta xót xa: một người con xa quê lâu ngày, háo hức trở về để “Úp mặt vào sống quê”, nào ngờ sông bị ô nhiễm nặng, đem lại sự hẫng hụt khó cân bằng. Nặng nề hơn, là quá trình đô thị hóa không những làm biến dạng cảnh quan nông thôn mà còn làm cho con người biến chất, bị bần cùng hóa: một người nông dân có nhiều đất, bỗng nhiên nơi đó biến thành khu đô thị mới. Sau khi bán đất, được nhiều tiền, nền nếp gia đình thoái hóa, ăn tiêu bừa bãi, cuối cùng cả nhà không còn chốn nương thân…
Nhà văn Phạm Việt Long còn chỉ rõ, chuyện làng quê còn khắc họa chân thực hình tượng anh Bộ đội Cụ Hồ, tình quân dân thắm thiết, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tình yêu nước thương quê của mỗi người con đất Việt. Đó là tình cảm khăng khít của một chú bé với anh bộ đội, qua hàng chục năm vẫn nhớ như in những chuyện tâm tình của anh bộ đội cùng với kỷ vật là 2 viên bi. Nhiều chàng thanh niên nông thôn rời quê, trở thành người chiến sĩ quân đội, vẫn giữ bản tính chân thật, đứng đắn. Có một trường hợp hơi lạ: Một nữ chiến sĩ nhờ các chiến sĩ nam, vốn là họa sĩ, vẽ cho bức tranh khỏa thân để giữ lại tuổi thanh xuân, vì sợ cái đẹp của thân thể sẽ bị hủy hoại bởi công việc thời chiến nặng nhọc. Truyện này cho thấy, người thôn nữ rất biết quý trọng, gìn giữ cái đẹp, nhưng dám hi sinh cái đẹp để phụng sự đất nước. Một số bài viết đã miêu tả sinh động bước chuyển mình của nông thôn với tương lai tươi sáng. Nông thôn có điện, chuyện bây giờ đã là binh thường, nhưng thực sự là chuyển biến vượt bậc của nông thôn, tạo tiền đề cho việc phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Người đàn bà lưu lạc nhớ về cố quốc và lúc ấy, mới thấy quê hương mình tốt đẹp biết bao. Nhiều bài phản ánh về những người nông dân đã tìm ra phương thức sản xuất mới, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Về nghệ thuật, theo Tiến sĩ Phạm Việt Long, các tác phẩm trong Truyện ký "Chuyện làng quê" đều viết theo phương pháp hiện thực. Có một số tản văn, truyện ngắn, dựa trên hiện thực, có hư cấu, các tác giả dẫn độc giả đi sâu vào cảm xúc với thiên nhiên, con người, lắng lại suy nghĩ về nhân tình thế thái. Phần lớn còn lại, là viết về những chuyện người thật việc thật. Với cách hành văn mạch lạc, ngôn từ mộc mạc, các tác giả vẽ nên bức tranh làng quê chân thực và sinh động, tạo được sự tin cậy và xúc cảm mạnh mẽ nơi người đọc.Từ chỗ có rất nhiều tác phẩm vẽ nên chân dung làng quê, làm rõ bản chất tốt đẹp và khả năng bảo vệ, xây dựng đất nước của người nhà quê, tác phẩm đã cho người đọc thấy tương lai tươi sáng của làng quê, của đất nước. Một thông điệp không cần phát ngôn mà được toát lên từ toàn bộ tập sách, giúp người đọc thêm yêu mến, tin tưởng ở làng quê Việt, những người nhà quê Việt và ở tương lai rạng rỡ của đất nước./.