Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 43)

PGS TS Cao Văn Liên

06/08/2021 07:43

Theo dõi trên

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc tác phẩm “Lịch sử Việt Nam từ tiền sử đến năm 2007” của PGS TS Cao Văn Liên  do NXB Thanh niên ấn hành năm 2009.

cvl2-1628210573.jpg

Kỳ 43

Hiến pháp 1959 được Quốc hội khoá 1 thông qua trong kỳ họp thứ 1, được công bố ngày 1-1-1960. Hiến pháp gồm lời nói đầu, 10 chương, 112 điều. Hiến pháp 1959 qui định bản chất nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng công nông liên minh do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hiến pháp 1959 xác định mục tiêu cơ bản đường lối kinh tế, xác định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Hiến pháp cũng qui định về tổ chức bộ máy nhà nước.

Hiến pháp 1980 được thông qua bởi Quốc hội khoá 6 ngày 18-12-1980, công bố ngày 19-12-1980 gồm lời nói đầu, 12 chương, 147 điều. Hiến pháp khẳng định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và hệ thống chính trị, khẳng định quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Hiến pháp đã thể chế hoá đường lối xây dựng kinh tế  mới, văn hoá mới, con ngươì mới và xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Hiến pháp khẳng định quyền và nghĩa vụ của công dân, qui định  cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước .

Hiến pháp 1992 do Quốc Hội khoá VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992 bao gồm lời nói đầu, 12 chương và 147 điều. Hiến pháp đã khẳng định  thành tựu về mọi mặt qua nhiều năm đổi mới, khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với đời sống xã hội và hệ thống chính trị. Qui định cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước có nét khác với hiến pháp 1980 như không còn chức danh Hội đồng nhà nước. Hội đồng Bộ trưởng được gọi là Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu. Hiến  pháp qui định sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Hiến pháp 1992 là cột mốc lịch sử trong quá trình phát triển của dân tộc trong thời kỳ đổi mới.

Trên cơ sở Hiến pháp, chúng ta đã ra sức xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền. Luật hiến pháp bao gồm các luật liên quan đến điều chỉnh các quan hệ quyền lực nhà nước như luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ta đã xây dựng các Bộ luật dân sự,  Luật hình sự, Lụât tố tụng,  Luật về kinh tế, Luật về văn  hoá, Luật về xây dựng quốc phòng và an ninh .

Với công cụ là hệ thống chính trị mà nòng cốt là nhà nước đã thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Đối nội, nhà nước đã tổ chức, động viên, quản lý nhân dân xây dựng  phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội hướng tới thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện chính sách xoá đói giảm ngheo đối với nông thôn, thực hiện chính sách ưu tiên phát triển kinh tế , văn hoá, xã hội đối cho các dân tộc  thiểu số với các dự án chương trình 134, 135. Năm 2007 đã nâng cấp cơ sở nông thôn miền núi, xây dựng được 4213 công trình cơ sở hạ tầng, góp phần nâng tỉ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm 96 %, 97 % xã miền núi có trạm y tế, 84 % số xã có đủ trường lớp tiểu học và trung học cơ sở, 90 % xã có điện lưới quốc gia, 81 % số xã có công trình thuỷ lợi nhỏ. Năm 2007 cũng đã hỗ trợ  330. 293 nhà ở cho đồng bào nghèo dân tộc thiểu số, đã giải quyết đất cho 78 % số hộ  với 74 % diện tích theo kế hoạch, giải quyết đất sản xuất cho 70. 549 hộ  với diện tích 25. 151 ha. Năm 2008 chương trình 135 có vốn 3043 tỉ đồng, trong đó vốn cho các xã dặc biệt khó khăn  là 1976 tỉ, vốn cho thôn bản đặc biệt khó khăn khu vực 2 là 635 tỉ, vốn cho các nhiệm vụ khác 432 tỉ đồng. (Báo Đại đoàn kết số 179 –2007). Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với những gia đinh thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước.  Tỉ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh từ 17 % năm 2000 xuống còn 7 % năm 2005. Theo chuẩn mới tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 22 % đầu 2006 đến 2007  còn khoảng 14,87 %. Đời sống nhân dân, nhất là các vùng nông thôn được cải thiện rõ rệt. Chính phủ cũng cương quyết cùng nhân dân chống bão lũ lụt, hỗ trợ kịp thời để khắc  phục và giảm thiểu khó  khăn, kiên quyết ngăn chặn và dập tắt các ổ dịch gia cầm,  gia súc hoành hành dữ dội vào những năm cuối thê kỷ XX . Cấm và loại bỏ hoàn toàn hủ tục đốt pháo trong những ngày tết nguyên đán, kiên quyết trấn ấp các loại tội phạm, nhiều biện phạm quyết liệt để giảm thiểu tai nạn giao thông, qui định việc đội mũ bảo hiểm xe máy trở thành bắt buộc  của pháp luật đối với người tham gia giao thông. Chính phủ đề ra nhiều chính sách để giải quyết nạn thất nghiệp. Năm 2003, nhà nước đã tạo được việc làm cho 1325.000 người, năm 2007 đạt 1.700.000 người, đạt 105, 3 % kế goạch (thời báo kinh tế Việt Nam số tháng 2-2008) .

Về đối ngoại, đang trên lộ trình xây dựng đường biên giới hữu nghị hoà bình với các nước láng giềng Cam pu chia, Lào, Trung Quốc. Việt Nam đã xây dựng được tình hữu nghị với các nước Đông Nam Á và gia nhập khối  “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A” (ASEAN ) năm 1995, xây dựng tình hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đầu năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và  ngày16-10- năm 2007 được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, được tham gia vào cơ quan quyền lực cao của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, góp phần giải quyết vấn đề hoà bình và an ninh thế giới  thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao với  167 nước, trong đó có 50 nước ở cấp đại sứ. Viêt Nam là thành viên của ASEAN, Khối cộng đồng Pháp ngữ, Diễn đàn hợp tác kinh tế các nước châu Á Thái Bình dương (APEC), Hội nghị hợp tác kinh tế Thái Bình dưong (PECC), Liên hợp quốc. Nhà nước Việt Nam khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của Cộng đồng dân tộc Việt Nam. Năm 2007, nước ta cũng đã  thực hiện miễn thị thực nhập cảnh đối với Việt kiều .

II . Kinh tế Việt Nam từ 1975 đến 2007

Từ 1975-1985

 Xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình cũ (Tập trung-hành chính-mệnh lệnh quan liêu bao cấp). Sau khi thống nhât đất nước, miền Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo đường lối của Đại hội IV và Đại hội V. Nội dung của đường lối đó là nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế với quốc phòng làm cho Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa  có kinh tế công nông nghiệp hiện đại, văn hoá khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc .

Thực hiện đường lối trên, Việt Nam đã thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980) nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, bước đầu có được cơ cấu kinh tế xã hội chủ nghĩa,  cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân. Qua 5 năm thực hiện kế hoạch kinh tế  này, nền kinh tế nước ta được khôi phục, hàn gắn được vết thương chiến tranh. Tuy nhiên những thành tựu kinh tế còn thấp  so với kế hoạch, mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân, chưa bảo đảm được tiêu dùng cho toàn xã hội. Thiếu thốn các nhu yếu phẩm như lương thực, vải vóc…đời sống nhan dân lao động khó khăn. Thiếu thốn năng lượng, vật tư.  Giao thông vận tải không đáp ứng được nhu cầu vận chuyển, đi lại. Không tạo được tích luỹ vốn, chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và tiền, nhập khẩu so với xuất khẩu còn chênh lệch quá lớn .

Những khó khăn trên xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan. Khách quan là do ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nghèo nàn, sản xúât tiểu nông, lại bị chiến tranh lâu dài tàn phá. Về nguyên nhân chủ quan, chúng ta nhận định tình hình đất nước sau chiến tranh còn thiên về thuận lợi, chưa lường hết những khó khăn thách thức. Từ đó đề ra chủ trương công nghiệp hoá khi chưa có những tiền đề. Trong xây dựng kinh tế thiên về công nghiệp và xây dựng cơ bản, không tập trung phát triển nông nghiệp, thực phẩm và hàng tiêu dùng dẫn đến thiếu trầm trọng những hàng tiêu dùng, nhu yếu phẩm. Nóng vội khi chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Chậm xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp, không xử lý nghiêm những hành động vi phạm pháp luật. Tham nhũng đã trở thành một hiện tượng nhưng không được đè bẹp để sau này chúng ngày càng phát triển thành một nguy cơ đối với chế độ vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI .

Trong hoàn cảnh đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần V của Đảng họp tháng 3 -1982 nhận thức rằng đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng kinh tế là chung cho cả thời kỳ quá độ. Muốn thực hiện thắng lợi phải cụ thể  đường lối đó thành những chặng đường  với những nhiệm vụ và biện pháp cụ thể hợp với khả năng và yêu cầu của từng chặng đường. Từ nhận thức đó, Đại hội V xác định trong 5 năm (1981-1985 ) và những năm 80 cần tập trung phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng .

Việt Nam đã thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981-1985) với mục tiêu là sắp xếp lại cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, từ sau Đại hội V ta đã đạt được những thành tựu trong kinh tế. Đã ngăn chặn được sự giảm sút, sản lượng nông nghiệp đạt 17 triệu tấn (so với 13 triệu tấn 1976-1980) nhờ cơ chế khoán 100. Sản lượng công nghiệp tăng bình quân hàng năm  9, 5% (so với 0, 6% các năm 1978-1980). Các công trình thuỷ điện Hoà Bình, Trị An được khởi công xây dựng .

Tuy vậy, Việt Nam vẫn rất khó khăn về kinh tế, sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, tài nguyên và cơ sở vật chất bị lãng phí, hàng hoá khan hiếm, phân phối lưu thông rối ren, vật giá tăng nhanh, ngân sách thâm hụt, lạm phát tăng nhanh, kinh tế mất cân đối. Tiêu cực trong xã hội gày càng phát triển. Một bộ phận cán bộ nhà nước tham nhũng, lãng phí, đời sống nhân dân lao động, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang khó khăn, thiếu thốn . Tất cả những khó khăn trên bắt nguồn từ việc vẫn tiếp tục duy trì tình trạng quan liêu bao cấp. Mô hình chủ nghĩa xã hội này của Liên Xô, đúng hơn là của Stalin, được các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và châu Á thực hiện theo. Tuy nhiên, ban đầu trong những hòan cảnh lịch sử cụ thể nhất định, mô hình này phát huy tính tích cực của nó. Những năm 70 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội thế giới phát triển đến đỉnh cao của sự hưng thịnh. Nhưng vào những năm 80, mô hình này bắt đầu xơ cứng, lạc hậu, đẩy toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới vào cuộc khủng hoảng trầm trọng và sụp đổ, Việt Nam theo mô hình chủ nghĩa xã hội này không thể đứng ngoài cuộc khủng hoảng chung của hệ thống. Vào những năm 80, nước ta đứng trước sự khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội .

(Còn nữa)

CVL

Bạn đang đọc bài viết "Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 43)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn