Nhà thơ Bùi Quang Thanh, ru mình giữa bộn bề đa đoan

Trong “Bùi Quang Thanh Thơ” có nhiều bài thơ thế sự. Dường như cuộc đời làm báo tạo nên trong Bùi Quang Thanh những câu hỏi. Từ câu hỏi lớn của dân tộc đến câu hỏi của thân phận con người, câu hỏi cho chính mình.

         

nha-tho-bui-quang-thanh-1-1620553852.jpg
Nhà thơ Bùi Quang Thanh tặng thơ cho Bộ đội Trường Sa

         Nhà thơ Bùi Quang Thanh, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vừa “trình làng” tập thơ “Bùi Quang Thanh Thơ”, do Nhà nước đặt hàng. Đây là tác phẩm mới nhất của ông trong “hành trình thơ”. Tập thơ khá đồ sộ, dày tới 400 trang, khổ 14,5x20,5cm, gồm 235 bài thơ. Tôi ngẫu nhiên cộng “ba con số” trong số lượng bài thơ trên thì ra con số 10.

Bùi Quang Thanh Thơ”, được ông chia thành 5 phần. Phần I “Đò dọc – Sông đêm” – trích trường ca cùng tên, có 8 khúc; Phần II “Lời hương khói” có 23 bài; Phần III “Thơ viết những năm đánh Mỹ”, 1971 – 1975 có 10 bài; Phần IV “Một cánh xuân” có 160 bài; Phần V “Thơ viết cho thiếu nhi” có 34 bài.

Dẫu tập thơ chưa gọi là “tuyển”, nhưng cầm tập thơ vạm vỡ trên tay, chắc chắn ai cũng nhận định, đây gần như là phần sáng tác cơ bản của nhà thơ Bùi Quang Thanh. 235 bài thơ trong tập này, về cơ bản đã xuất hiện trong 7 tập thơ, anh đã xuất bản từ năm 1994 đến nay.

Bùi Quang Thanh từng tham gia quân đội, có mặt trên chiến trường những ngày “đỏ lửa” nên dễ hiểu anh có Phần III, “Thơ viết những năm đánh Mỹ”, nhưng những vấn đề về đồng đội, những câu hỏi thời hậu chiến vào thơ anh, còn nằm rải rác ở Phần IV “Những cánh xuân”. Như vậy, nếu không tính Phần I, trích trường ca “Đò dọc – Sông đêm”, có tính sử thi và Phần V “Thơ viết cho thiếu nhi”, các phần còn lại chỉ mang tính ước lệ. Nhất là, người đọc nhìn ở mục lục Phần IV, gồm 160 bài có thể xếp ở Phần II, III và ngược lại. Điều này cho thấy, cảm xúc thơ của Bùi Quang Thanh luôn có hôm qua, hôm nay.

*

*                 *

            “Mẹ chọn năm sinh tôi/ Năm thế kỷ hai mươi bi tách thành hai nửa”, “Chiếc võng lác đầm đìa hương cỏ mật/ Đẫm nắng mặt trời/ Đẫm gió – sương – trăng”, (mục 8, Đò dọc – Sông đêm, trang 32). Nhà thơ Bùi Quang Thanh đã “khai” năm sinh và hoàn cảnh lúc ông có mặt trên cõi đời này. Đó là những năm tháng thân phụ anh có mặt cùng đoàn quân ra trận tham gia Chiến dịch Biên giới Thu đông năm 1950. Bản thân nhà thơ sinh ra trong những năm tháng ấy, lớn lên đi bộ đội tiếp tục cuộc trường chinh giải phóng dân tộc, nên dễ hiểu trong thơ Bùi Quang Thanh đầy tính thời sự và thế sự. Đây cũng là đề tài “áp đảo” trong “Bùi Quang Thanh Thơ”.

Những năm tháng vượt rừng, lội suối, gian khổ trên chiến trường như “Thơ viết những năm đánh Mỹ 1971 - 1975” của Bùi Quang Thanh là tiếng hát reo vui, lạc quan:

...

Cài hoa lên nòng súng

Ta bước tiếp chặng đường

Hương xuân bay bát ngát

Giữa núi rừng Trường Sơn

(Cành hoa bưởi – Trích nhật ký hành quân)

 

Bài thơ “Cành hoa bưởi” nhà thơ Bùi Quang Thanh viết vào xuân Nhâm Tý năm 1972 khi anh đang có mặt ở chiến trường Nam Lào. Đây là thời điểm, bộ đội ta thực hiện nhiều cuộc tấn công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, trong đó có chiến dịch 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị. Thơ Bùi Quang Thanh giai đoạn này, không thấy những bài thơ nóng hổi đạn bom, khét mùi thuốc súng...tuy nhiên, thơ anh vẫn hừng hực không khí ra trận, quan trọng hơn, niềm tin của người lính về ngày chiến thắng. “Lửa sáng đường xe ra phía trước/ Đất hóa chiến công – biển hồng sóng nhạc/ Giải phóng miền Nam”, (Ca khúc tháng 5).

Đọc những câu thơ này, người đọc hình dung ra những mũi tiến công chiến lược đang tiến vào Sài Gòn, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. Bùi Quang Thanh cứ ghi chép cảm xúc trên đường ra trận mà thành thơ. Đúng như nhà thơ Nga Raxun Gamzatôp đã nói: “Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay”.

         Sau này, đề tài “hậu chiến” vẫn ám ảnh trong thơ Bùi Quang Thanh. Đất nước đã hòa bình, nhưng với những người lính đã đi qua chiến tranh họ không quên đồng đội, những người đã ngã xuống trên chiến trường.

            ...

           Bao năm bóng xế trăng chùng

           Bao năm đơn lẻ bạn cùng đất nâu

           Rễ cây thay tóc trên đầu

           Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn

            ...

            Liêu xiêu bóng đổ lưng đèo

            Giật mình thảng tiếng bạn kêu cuối rừng

            (Lời ru đồng đội)       

nha-tho-bui-quang-thanh-2-1620553852.jpg
 

            Có lịch sử mới có hiện tại, có hôm qua mới có hôm nay. Giọt máu đào của những người ngã xuống làm cho đất nước nở hoa. Thơ Bùi Quang Thanh cũng như thơ của những nhà thơ lính trận khác cho đến hôm nay vẫn cất tiếng nói xa xót, trắc ẩn và mang đến những thông điệp về trách nhiệm, đạo lý. “Tay già run rẩy bờ nôi/ Nỗi đau lòng mẹ sau thời chiến tranh”, (Nỗi đau lòng mẹ). Mẹ ở đây, có thể là người mẹ có đứa con sau chiến tranh không về, có thể là “mẹ Tổ quốc” lắm chứ?

*

*          *

Trong “Bùi Quang Thanh Thơ”, số bài có tên bài nói đến Hà Tĩnh và các địa danh ở Hà Tĩnh gồm 24 bài, chiếm 10,2%; số bài nói đến quê hương bản quán, con đò, cây đa, bến nước, người thân gồm 30 bài, chiếm 12,7%...Bùi Quang Thanh sinh ra và lớn lên ở Hà Tĩnh nên thơ anh viết về quê hương chiếm đến 22% là đương nhiên, anh nặng lòng với quê.

Trong thơ Bùi Quang Thanh có một dòng chảy, mạch vỉa liên tục. “Tôi nợ con sông quê khi vùi tấm thân lấm láp giữa dòng trong vắt, sông gột rửa tôi bằng giọt lòng, gạn những gì tôi bỏ lại, lắng đọng đôi bờ thành dịu ngọt phù sa”, (Lay thức, mục 8, trích trường ca Đò dọc – Sông đêm). Trường ca này đậm chất sử thi.

...

Đò dọc – sông đêm

Chòng chành thuyền xuôi nhịp sóng

Đỏng đảnh mảnh trăng đầu tháng

Sông ngà vẩy bạc lăn tăn

 

Như là bơi giữa sông Ngân

Sao trời xé hình lưỡi mác

Lao xao tiếng cười tiếng hát

Anh thành trẻ lạc bồng lai

 

          Bùi Quang Thanh xuống “đò dọc” không phải trên dòng Lam chung giữa Nghệ An – Hà Tĩnh hay dòng La của Hà Tĩnh quê anh mà trên “sông đêm”. “Đò dọc” chỉ có trong thi ca, còn trong đời sống chỉ có đò ngang, từ bờ này sang bờ kia. Đò dọc sẽ đi đến bao giờ? Chắc chắn sẽ đi mãi cùng dòng sông! Ở đây lại là con sông của huyền sử, chính vì thế nên nó mới là “sông đêm”, nhiều vấn đề của trời đất, thiên tạo, con vật xoay vần còn mãi mãi câu hỏi. Nhà thơ cất công đi “đò dọc” mong tìm ra câu trả lời.

Trong trường ca này, dẫu trích nhưng núi Hồng Lĩnh hiện lên trên trang thơ vâm vấp. Trong “không gian” Hồng Lĩnh còn chứa bao huyền thoại.

...

Núi Hồng như có châu sa

Lam Giang lắng dòng quên chảy

Chim Phượng đầu đàn lộng lẫy

Đảo mình ngó khắp bốn phương

 

Hồng Lĩnh thời huyền sử, gắn với mối quan hệ giữa Kinh Dương Vương với thời đại Hùng Vương và vấn đề Việt Thường; khái quát quá trình lịch sử, văn hóa, quá trình phát triển của mảnh đất Hồng Lĩnh. Hồng Lĩnh 99 ngọn, tương truyền đã có 100 con Phượng Hoàng về đây, tương truyền ông Đùng đã rẽ mây xuống dạy cho trăm dân làm nghề lúa nước...Quê hương ấy, huyền sử ấy hình thành nên cốt cách con người vùng đất ấy. Nhà thơ Bùi Quang Thanh thốt lên: “Chẳng phải tự nhiên mà hạt lúa cũng hai đầu biết nhọn. Rằng: dòng Lam trong xanh bởi đầu nguồn Ngàn Sâu, Ngàn Phố xanh trong. Cám ơn nàng đã nhắc ta lẽ sống: Cội nguồn”, (Đò dọc – Sông đêm, Lay thức).

Cội nguồn là “dòng sông” lớn luôn chảy trong tâm thức nhà thơ Bùi Quang Thanh nên anh trăn trở không chỉ với ngày mai, hôm nay mà cả những ngày đã qua. Chính vì thế, Bùi Quang Thanh làm thơ về Phù Đổng Thiên Vương, về vua Mai Hắc Đế, Nguyễn Trãi.....; về đồng đội, về những cô gái thanh niên xung phong trên những tuyến đường thời chống Mỹ...cho đến những em bé chưa đầy “tuổi tôi”.

Trong “Bùi Quang Thanh Thơ” có nhiều bài thơ thế sự. Dường như cuộc đời làm báo tạo nên trong Bùi Quang Thanh những câu hỏi. Từ câu hỏi lớn của dân tộc đến câu hỏi của thân phận con người, câu hỏi cho chính mình.

...

Nguyễn Phi Khanh bị đày qua ải Bắc

Nguyễn Trãi sau này mới biết cậy sức dân

(Sao không chạy vào lòng dân)

...

Bên biển xanh chẳng soi nổi bóng mình

Trước gương trong không gọi về tuổi trẻ

Bạc đầu rồi vẫn còn nhơ dại thế

Cũng mình thôi mà chắc đã là mình

(Tự khúc)

 

Đối với mỗi dân tộc, mỗi con người, điều đáng lo nhất chính là “cũng mình thôi chưa chắc đã là mình”. “Tôi nhặt lên niềm vui của ai đó đã bỏ quên trên đường phố thả vào chiếc cốc cuộc đời. Niềm vui lặn xuống đáy còn nỗi buồn tràn ra ngoài miệng cốc. Niềm vui vay mượn không hề sủi bọt trong chính đời tôi. Nỗi buồn của ai cứ quấn lấy tôi như máu thịt”, (Song hành). Bùi Quang Thanh luôn suy tư và ưu tư như vậy. Chính điều đó tạo nên những mỹ cảm mang tính triết lý trong thơ Bùi Quang Thanh. Cũng vì yêu đến xa xót con người, quê hương, đất nước nên Bùi Quang Thanh không ngại khi có những bài thơ như: “Với tướng giặc Liễu Thăng”, “Thư ngỏ gửi các nhà lãnh đạo Trung cộng”, “Đêm không ngủ nghe nghìn xưa giục giã”...luôn nóng hổi tính thời sự, thời cuộc về biển đảo, chủ quyền quốc gia, nhưng vốn nhạy cảm, ít người dám đụng đến. Thậm chí, rất khó viết. Những bài thơ này, đặc biệt “Đêm không ngủ nghe nghìn xưa giục giã” là tráng ca về lòng tự hào dân tộc.

 

nha-tho-bui-quang-thanh-3-1620553852.jpg
Nhà thơ Bùi Quang Thanh (phải) tặng nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu “Bùi Quang Thanh Thơ”

           Sau khi rời quân ngũ, nhà thơ Bùi Quang Thanh trở thành một phóng viên cho đến ngày nghỉ hưu. Cuộc đời làm báo nên anh rong ruổi khắp mọi miền Tổ quốc. Đến đâu anh cũng có những cảm xúc thơ. “Đêm Mộc Châu”, “Ngày mai Phia Đen”, “Qua Tuyên Quang nhớ Trần Nhật Duật”, “Xứ Lạng”, “Đêm sông Trà”, “Trai Nghi Xuân ở Nam Yết”....là những thi phẩm, ra đời trong quá trình thâm nhập thực tế, tác nghiệp báo chí của anh. Bùi Quang Thanh là người chăm chỉ nhặt “hạt vàng”, (chữ của Chế Lan Viên) rơi vãi trong hành trình thi ca của mình. Đây cũng là điều tạo nên “bút pháp” Bùi Quang Thanh, thơ anh gần gũi với cuộc sống, dễ tạo ra xung chấn và đồng điệu cho người yêu thơ.

Cả “gia tài” thơ nói chung và “Bùi Quang Thanh Thơ” nói riêng đa dạng đề tài, anh viết từ cọng rau muống nơi quê nhà đến những vấn đề đại sự của quốc gia, dân tộc. Trái tim đa tình, đa cảm của “lãng tử” Bùi Quang Thanh còn dành nhiều thời gian cho thiếu nhi. Anh khá thành công trong việc sử dụng chất liệu đồng dao khi sáng tác cho thiếu nhi. Và dù sáng tác cho thiếu nhi thì thơ thiếu nhi của anh cũng lấp lánh những thông điệp, điều cần nói. “...Giữa vũ trụ bao la/ giát toàn vàng và bạc/ phải chòm sao sáng nhất/ làm bằng sắt? Ngựa ơi!”, (Nhớ ông Gióng).

Bùi Quang Thanh đã làm tốt hơn cả những nhà sư phạm trong những bài giảng về tình yêu Tổ quốc và giáo dục công dân, không chỉ lớp mầm, lớp lá mà chiều cấp học sinh khác. Thơ ông viết cho thiếu nhi đầy tính nhạc, chất liệu đồng dao, chất liệu ví giặm; có thể cất lên thành tiếng hát. “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”, (Xuân Diệu).

 

NĐH