Kỳ 23
X. QUỐC HIỆU VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ (1945-1975).
Thực dân Pháp xâm lược và cai trị Việt Nam.
Để chiếm nước ta làm thuộc địa, năm 1858 thực dân Pháp tấn công vào Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh Pháp -Việt lần thứ nhất. Thất bại ở Đà Nẵng, từ 1859 đến 1867 Pháp quay sang đánh chiếm 6 tỉnh miền Nam: Gia Định, Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên để làm bàn đạp đánh chiếm toàn bộ Việt Nam và Đông Dương. Tiếp đó năm 1873, Pháp đánh Hà Nội và Bắc Kỳ lần 1; năm 1882 Pháp đánh chiếm Hà Nội và Bắc Kỳ Bắc Kỳ lần 2. Tháng 8 năm 1883 Pháp đánh chiếm cửa biển Thuận An. Năm 1883 và 1884 triều đình Huế khiếp sợ ký hàng ước dâng toàn bộ nước ta cho Pháp. Nguyên nhân mất nước là do sự hèn nhát của triều đình Huế, không giám phát động chiến tranh toàn dân giữ nước, chỉ chăm lo nhân nhượng và cuối cùng đầu hàng quân xâm lược. Nước ta bị biến thành thuộc địa nằm trong cái gọi là Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp bao gồm 5 xứ: Lào, Campuchia và 3 xứ của Việt Nam: Bắc Kỳ từ Ninh Bình trở ra Bắc, Trung Kỳ từ Thanh Hóa vào Bình Thuận, Nam Kỳ từ Đồng Nai vào hết miền Nam.
2. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp
Tuy nhiên với truyền thống anh hùng bất khuất, nhân dân ta đã liên tục nổi dậy đấu tranh chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ khi Pháp vừa sang xâm lược, phong trào Cần Vương đấu tranh bằng khởi nghĩa vũ trang của các Văn thân, Sĩ phu yêu nước, phong trào khởi nghĩa bền bỉ của nông dân Yên Thế cuối thế kỷ XIX, phong trào cải cách ôn hoà của cụ Phan Chu Trinh, phong trào chủ trương bạo động dựa vào Nhật để chống Pháp của cụ Phan Bội Châu đầu thế kỷ XX, Cuộc bạo động Yên Bái “ Sát thân thành nhân” của Việt Nam Quốc dân Đảng Nguyễn Thái Học. Máu của các liệt sĩ nhuộm đỏ trang lịch sử oanh liệt nhưng tất cả đều thất bại. Chỉ đến năm 1920 khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước: Giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải do giai cấp vô sản Việt Nam thông qua đội tiên phong của họ là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng phải được tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân, chủ yếu là của công nông và của toàn thể dân tộc, đồng thời phải tận dụng những nhân tố sức mạnh của thời đại. Có như vậy cách mạng Việt Nam mới thắng lợi.
3. Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Năm 1941 Hồ Chí Minh tiên đoán Đại chiến thế giới thứ II sẽ kết thúc với sự thất bại của phe phát xít, trong đó có phát xít Nhật sẽ tạo thời cơ cho Đông Dương giành độc lập dân tộc, vì thế Người đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Hội Nghị Trung ương VIII do Hồ Chí Minh chủ tọa đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đề cao vấn đề dân tộc, nhiệm vụ giải phóng dân tộc là bức thiết trước sự thống trị tàn bạo dã man của phát xít Pháp-Nhật. Hội nghị đã đề ra việc thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh hội (Việt Minh) để đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị, trên cơ sở đó xây dựng lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị lật đổ chính quyền thực dân phát xít phong kiến. Trên tinh thần nghị quyết trung ương VIII, Hồ, Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân thành lập Khu giải phóng Việt Bắc bao gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên với thủ đô là Tân Trào (Tuyên Quang), xây dựng được quân Giải Phóng. Mặt trận Việt Minh và lực lương cách mạng được xây dựng trong toàn quốc. Khoảng tháng 3-1945 cao trào kháng Nhật cứu nước đã bùng lên mạnh mẽ trong toàn quốc. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuẩn bị đầy đủ lực lượng, đưa toàn dân đứng trước ngưỡng cửa của cuộc tổng khởi nghĩa, chỉ cần chờ thời cơ là bùng nổ cách mạng.
Trong cách mạng, thời cơ cách mạng thường do yếu tố bên ngoài mạng lại. Thời cơ cách mạng đến rất nhanh và trôi đi rất nhanh. Thời cơ cách mạng Tháng Tám là do Đồng Minh chiến thắng chủ nghĩa phát xít mang lại, đặc biệt là việc Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Nhật. Ngày 9 tháng 5 năm 1945 chủ nghĩa phát xít Đức bị tiêu diệt, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngay sau đó, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hi rô si ma, ngày 9 tháng 8 năm đó Mỹ ném tiếp quả thứ hai xuống Nagazaki giết chết hàng chục vạn người. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông, đạo quân tinh nhuệ bậc nhất của Nhật Bản ở Đông Bắc Trung Quốc. Sức cùng lực kiệt, ngày 15 tháng 8 năm 1945 Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. 6 vạn quân Nhật ở Đông Dương và Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ . Thời cơ tổng khởi nghĩa giành độc lập dân tộc đã đến. Ngày 13 tháng 8 năm 1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào (Tuyên Quang) hạ lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Ngày 16 tháng 8 năm 1945 Đại hội Quốc dân tại Tân Trào do Tổng bộ Việt Minh triệu tập tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng. Đại hội Quốc dân quyết định lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm quốc ca, cử ra Chính phủ lâm thời (Uỷ ban dân tộc giải phóng) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chính phủ lâm thời gồm 13 bộ :Ngoại giao, Nội vụ, Thông tin tuyên truyền, Quốc phòng, Thanh niên, Bộ kinh tế quốc gia, Bộ cứu tế xã hội, Bộ tư pháp, Bộ Y tế, Bộ lao động, Bộ giao thông công chính, Bộ tài chính, Bộ quốc gia giáo dục .
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, quân giải phóng đánh chiếm thị xã Thái Nguyên, 17 tháng 8 chiếm thị xã Tuyên Quang, ngày 18 tháng 8 khởi nghĩa ở Bắc Giang, Hải Dương . v. v. Ngày 19 tháng 8 khởi nghĩa thành công ở Hà Nội. Ngày 23 tháng 8 khởi nghĩa thắng lợi ở Huế, 25 tháng 8 khởi ngghĩa thành công ở Sài Gòn. Từ 14 đến 28 tháng 8 năm 1945, chỉ 15 ngày tổng khởi nghĩa thành công trong cả nước, nhanh chóng, ít đổ máu duới những hình thái phong phú, sinh động đầy sáng tạo. Ngày 30 tháng 8 năm 1945 trước hàng vạn nhân dân Huế tại cửa Ngọ Môn, Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Vương triều Nguyễn đọc chiếu thoái vị, nộp ấn kiếm cho đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
(Còn nữa)
CVL