Kỳ 20
3. Vương triều Nguyễn từ 1802 đến 1858
Sau khi lật đổ nhà Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lập ra Vương triều Nguyễn, đổi quốc hiệu Đại Việt thành Việt Nam (còn có tên Đại Nam), kinh đô Phú Xuân (Huế). Nguyễn Ánh lấy niên hiệu Gia Long, xây dựng một chế độ phong kiến tập quyền chuyên chế cực đoan. Vua của Vương triều Nguyễn nắm toàn bộ quyền lực, giành lấy quyền khống chế cả nước, quyết định mọi công việc lớn nhỏ từ trung ương đến địa phương. Để tăng cường quyền lực cho vua, nhà Nguyễn đặt ra lệ 4 không: Không đặt chức tể tướng, không lấy học vị trạng nguyên trong thi cử, không đặt chức Hoàng hậu trong tam cung, không phong vương cho hoàng thân quốc thích. Dưới vua có 6 bộ: Bộ binh, Bộ hộ, Bộ hình, Bộ lễ, Bộ công, Bộ lại. Mỗi Bộ do một Thượng thư đứng đầu, còn có tả hữu Thị lang. Dưới Bộ có 6 khoa: Khoa binh, khoa hình, khoa lễ, khoa công, khoa lại, khoa hộ. Khoa có nhiệm vụ kiểm soát các quan ở các bộ. Các cơ quan có Đô sát viện, Tả đô ngự sử, Hữu đô ngự sử, các chức cấp sự trung về lục khoa thuộc Đô sát viện. Đô sát viện còn có quyền tố cáo, buộc tội các quan. Đại lý tự xét án. Như vậy Bộ hình, Đô sát viện, Đại lý tự họp thành Tam pháp ti là 3 cơ quan trông coi về tư pháp.
Bên cạnh vua có hai cơ quan giúp việc: Viện cơ mật, Văn phòng gồm 4 viên đại thần họp thành Nội các. Còn có Phủ nội vụ trông coi kho vàng bạc của cải nhà vua. Toà chính ty trông coi vận chuyển thuế, Quốc tử giám trông coi giáo dục, Khâm thiên giám trông coi thiên văn, làm ra lịch pháp, Thái y viện trông coi y dược chữa bệnh trong cung.
Quân đội nhà Nguyễn chia thành 5 quân: Trung quân, tiền quân, tả quân, hữu quân và hậu quân. Mỗi quân do một Chưởng phủ hay Đô thống chỉ huy. Dưới quân là vệ, mỗi vệ có Đô thống hoặc Thống chế cầm đầu. Thuỷ quân nhà Nguyễn có chức Đô đốc hoặc Đề đốc nắm giữ.
Đơn vị hành chính: Địa phương thời Gia Long chia toàn quốc thành 3 khu vực: Bắc thành gồm toàn bộ miền Bắc, Gia Định thành gồm toàn bộ miền Nam. Dưới thành là trấn, Bắc thành có 11 trấn, Gia Định thành có 5 trấn. Toàn bộ miền Trung gọi là Khu Trung ương đặt dưới sự quản lý trực tiếp của triều đình chia thành 4 dinh: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam và 7 trấn là Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Khương, Bình Thuận. Dưới trấn là phủ, dưới phủ là huyện (châu miền núi). Đứng đầu Thành là Tổng trấn và phó Tổng trấn. Đứng đầu Trấn có quan Trấn thủ hay Lưu trấn, giúp việc có cai bạ và ký lục. Quan tri phủ đứng đầu phủ, Tri huyện cai trị huyện (tri châu miền núi). Dưới huyện là Tổng đứng đầu là Cai tổng, dưới Tổng là Xã đứng đầu là Xã Trưởng và Phó xã trưởng.
Thời Minh Mệnh vào năm 1831 toàn quốc chia thành 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên-Huế trực thuộc triều đình. Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc. Giúp việc cho Tổng đốc có Tuần phủ trông coi chính trị, giáo dục, Bố chính phụ trách về thuế khoá, đinh, điền, Án sát trông coi hình án, trạm dịch. Dưới cấp tỉnh là cấp phủ, huyện ( châu ở miền núi), tổng xã và thôn (bản ở miền núi). Đời Minh Mệnh cũng định tước vị từ nhất phẩm đến cửu phẩm. Bên cạnh vua vẫn duy trì Nội các và Viện cơ mật trông coi quân quốc trọng sự. Lại lập ra Bưu chính ty trông coi việc chuyển công văn, giấy tờ. Thái thường tự trông coi việc nghi lễ (đại lễ), Quang lộc tự trông coi lễ, phẩm. Đặt ra Tôn nhân phủ trông coi việc trong hoàng tộc.
Năm 1815 nhà Nguyễn ban hành bộ luật “Gia Long” (Hoàng triều luật lệ), có tham khảo luật “Hồng Đức” của Đại Việt và “Đại Thanh luật lệ” của nhà Thanh (Trung Quốc). Luật này nhằm bảo vệ uy quyền tuyệt đối của nhà vua, thẳng thay trừng trị tàn nhẫn đối với thần dân.
Bên cạnh việc tập ấm và tiến cử, nhà Nguyễn cũng tuyển chọn quan lại bằng thi cử. Nhưng chế độ học hành thi cử của nhà Nguyễn rất lạc hậu, học Nho và các Nho sĩ vùi đầu vào kinh điển Nho giáo, xa rời thực tế của thời đại, của đất nước. Quan lại được cấp lương bổng nhưng không đủ cho cuộc sống xa hoa nên tham nhũng, nhận hối lộ thu được gấp hàng nghìn lần so với lương bổng. Một người Pháp khi đó có mặt ở nước ta đã viết: Lương một viên quan bằng 3 phơ răng nhưng nhận hối lộ và tham nhũng từ 2.000 đến 3.000 Phơ Răng. Chúng vơ vét trong những dịp thu tô, thuế, xử án, bắt lính, bắt lao dịch, đắp đê điều, đường sá. v. v. Ở địa phương, bọn hào lý hoành hành dữ dội, không kiêng sợ gì. Dân thời đó coi quan như kẻ cứớp:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan.
Nhìn chung, bộ máy nhà Nguyễn là phản động, mục nát, bảo thủ, đối lập với quyền lợi của nhân dân, nó chỉ phục vụ cho giai cấp phong kiến, cho dòng họ, cho tập đoàn phong kiến đã hoàn toàn hủ bại, thối nát. Với một bộ máy nhà nước như vậy, Vương triều Nguyễn thẳng tay thi hành những chính sách đàn áp bóc lột nhân dân không thương xót. Nhà Nguyễn vơ vét của cải bằng cách bắt nộp cống phẩm, đánh nhiều loại thuế và thuế rất nặng: Thuế buôn bán, thuế thân, thuế ruộng. Nhà Nguyễn thu thuế theo nguyên tắc bảo đảm thu nhập cho nhà nước, bất chấp đời sống khổ cực của nhân dân và thiên tai mất mùa, đói kém. Chế độ lao dịch nặng nề, người dân phải đi lao dịch 60 ngày trong năm xây cung điện, lăng mộ, thành luỹ. Nhân dân còn phải cung cấp nguyên vật liệu xây dựng cho nhà nước, cung cấp trang thiết bị và lương thực cho quân đội.
Trong chính sách ruộng đất, nhà Nguyễn ra sức củng cố quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước và quyền sở hữu của địa chủ phong kiến. Chúng ra sức cướp đoạt ruộng đất của nông dân đã dành được dưới thời Tây sơn, chiếm đoạt ruộng đất công của công xã. Kết quả nông dân mất ruộng đất, bỏ làng đi phiêu tán, ruộng đất bỏ hoang nhiều vì không có người sản xuất. Đê điều không được nhà nước chăm lo tu tạo, bồi đắp, hoặc nhà nước chủ trương và cấp tiền tôn tạo nhưng bị cường hào, quan lại tham nhũng bòn rút hết nên không sửa chữa được khiến đê vỡ gây lụt lội liên tục. Như đời Tự Đức suốt 10 năm ròng đê vỡ, lũ lụt.
Nhà Nguyễn thi hành chính sách ức thương, cản trở, bóp nghẹt sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Đánh thuế rất nặng các nghề thủ công nghiệp, trưng thu những thợ lành nghề vào các công xưởng nhà nước. Nhà nước nắm độc quyền khai thác khoáng sản, sản vật, hạn chế buôn bán. Chính sách phản động bảo thủ đó làm cho thủ công nghiệp Việt Nam không thể chuyển dịch được thành kinh tế hàng hoá, thương mại suy tàn. Vương triều Nguyễn khước từ tất cả mọi đề nghị mở cửa buôn bán của các nuớc phương Tây, cự tuyệt mọi đề nghị cải cách của các văn thân, sĩ phu thức thời, muốn đưa nước nhà tới hùng mạnh. Kết quả của chính sách “bế quan toả cảng” mù quáng đó là Việt Nam vào thế kỷ XIX vẫn không ra đời được nền kinh tế hàng hoá và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó không ra đời được những giai cấp mới như tư sản và vô sản, tức là không có những tiền đề cho một cuộc cách mạng tư sản giải thể chế độ phong kiến, đưa Việt Nam lên con đường tư bản chủ nghĩa, một chế độ tiên tiến của thời đại khi đó.
(Còn nữa)
CVL