Vĩnh Phúc đầu Xuân hướng về nguồn cội: Điểm hẹn đầu xuân (Bài 1)

Tết đã đến. Xuân đã về. Cũng như bao miền quê trên mảnh đất hình chữ S, sắc xuân năm nay ở Vĩnh Phúc ấm áp, lâng lâng, bồi hồi nhớ lại 3 năm gồng mình thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch CoVid 19 mang tính toàn cầu, vừa thích ứng linh hoạt phát triển kinh tế xã hội đã đem lại kết quả khả quan.

Không còn bị hạn chế tụ tập đông người như những ngày cao điểm chống dịch CoVid 19, ngay những ngày đầu Xuân, người dân ở Vĩnh Phúc, nhất là ở thành phố tỉnh lỵ Vĩnh Yên đổ ra đường đông đúc, gương mặt ai nấy rạng ngời. Họ đều chúc phúc nhau bước sang năm mới Quý Mão luôn mạnh khỏe, gặp nhiều may mắn, đón nhận được nhiều điều tốt lành, tiếp tục thành đạt hơn năm cũ.

Bài 1: Điểm hẹn đầu xuân

Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc tại số 12, đường Lý Bôn, phường Ngô Quyền, Thành phố Vĩnh Yên là một  trong những điểm hẹn đầu xuân tìm hiều, hướng về nguồn cội của người Việt cổ. Toàn bộ không gian tầng 1 của bảo tàng vẫn duy trì trưng bày chuyên đề “Di chỉ Đồng Đậu – Hội tụ và tỏa sáng trong văn minh sông Hồng”.

dong-dau-2112023-1674314022.jpg

Với gần 500 hiện vật, tài liệu, hình ảnh được trưng bày khoa học, chân thực, thẩm mỹ và sinh động  nêu bật những giá trị đặc sắc, sự hội tụ và sự lan tỏa của di tích Đồng Đậu trong sự hình thành và phát triển của nền văn minh sông Hồng trong buổi đầu dựng nước của dân tộc Việt.

Giọng thuyết minh truyền cảm của hướng dẫn viên Bảo tàng Vĩnh Phúc Phạm Phúc Hải thu hút sự chú ý lắng nghe tìm hiểu của những khách du xuân: Di tích khảo cổ học Đồng Đậu được Nhà nước xếp hạng là di tích Văn hóa Lịch sử cấp Quốc gia từ ngày 21/4/2000. Di tích này nằm trọn vẹn trên gò cao khoảng 6 m so với mặt ruộng trũng xung quanh, có tổng diện tích 8,5 ha, thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc.

dong-dau-5c-1674315242.jpg
Ảnh: Nguyễn Tiến Dũng.

Kể từ khi phát hiện (năm 1962) đến nay, di tích khảo cổ học Đồng Đậu vẫn được bảo vệ, phục vụ cho các cuộc khai quật, nghiên cứu, tham quan học tập của các cơ quan khoa học chuyên ngành, các nhà khoa học trong nước, ngoài nước và học sinh các trường tại địa phương.

Di tích Đồng Đậu đã trải qua 7 lần thám sát và khai quật lớn vào các năm: 1965- 1966, 1967, 1968 - 1969, 1984, 1987, 1999 và 2012, với tổng diện tích là 758m2, tập trung ở các sườn phía Đông, Nam, phía Tây và đỉnh gò với tầng văn hoá dày trung bình trên 3 m (có chỗ tới 6 m). Lần khai quật thứ 7 vào tháng 12/2012 .

dong-dau-2112023h-1674315369.jpg

Ba ảnh trên: Đông đảo người đến Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc đến xem triển lãm “Di chỉ Đồng Đậu – Hội tụ và tỏa sáng trong văn minh sông Hồng”.

 

Qua 7 lần khai quật đã phát hiện được rất nhiều di vật khảo cổ với hàng nghìn tiêu bản hiện vật, hàng tấn mảnh gốm các loại, cực kỳ phong phú về chất liệu, chủng loại, đa dạng về loại hình, kiểu dáng tiêu biểu của 3 nền văn hóa: Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun bằng đá (rìu, đục, bàn mài, vòng, hạt chuỗi trang sức), đồng (rìu, dũa, mũi tên, lưỡi câu, mũi lao) gốm (mảnh nồi, vò, chạc, dọi xe chỉ, bi gốm và nhiều công cụ bằng xương, sừng. Di cốt động vật như: lợn, hươu, nai, trâu, bò, chó, hổ… và khá nhiều xương cá.

dong-dau-7m-1674316152.jpg

Hướng dẫn viên Bảo tàng Vĩnh Phúc Phạm Phúc Hải (bên phải) giới thiệu với tác giả bài viết về một trong những  bộ xương cốt người Việt cổ khai quật tìm thấy di chỉ khảo cổ Đồng Đậu được xác định bằng phương pháp các bon phóng xạ (C14) có niên đại 3.500 năm. Ảnh: Nguyễn Tiến Dũng

 

Đồng thời tại đây còn tìm thấy tượng hình trâu, bò, gà và nhiều xương thú vật, lần đầu tiên đã tìm thấy những hạt gạo cháy, chứng tỏ nghề nông nghiệp trồng lúa nước đã có từ rất lâu đời và đóng vai trò quan trọng trong đời sống của cư dân Việt cổ. Gò Đồng Đậu là một di chỉ quý, góp phần khẳng định trong tiến trình lịch sử của dân tộc trải dài trong khoảng 2 thiên niên kỷ, người Việt cổ đã dừng lại và định cư ở Đồng Đậu, tạo dựng ra đồng bằng Bắc Bộ và đã tạo ra nền văn minh Sông Hồng, đặc biệt đã xây dựng một nền văn minh lúa nước rực rỡ.

 So với tất cả các khu vực khảo cổ khác (thường có tầng văn hóa khoảng 40-50cm), Đồng Đậu có tầng văn hóa dày nhất tới 6 m và có diễn biến từ dưới lên theo tiến trình thời gian. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra 4 tầng văn hóa của di tích khảo cổ này. Lớp dưới cùng (cổ nhất) khai quật được nhiều đồ đá, gốm, công cụ bằng sừng và nhiều di cốt động vật.

dong-dau-6d-1674316521.jpg

Tác giả bài viết trở lại thăm Di tích khảo cổ học Đồng Đậu dịp đầu năm 2023. Ảnh: Nguyễn Tiến Dũng.

 

 

Đáng lưu ý, năm 1999, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với Sở VHTT&DL Vĩnh Phúc tiến hành cuộc khai quật lần thứ 6 đã phát hiện được một ngôi mộ táng, còn giữ lại được di cốt người thuộc văn hóa Phùng Nguyên. Cuộc khai quật lần này, mặc dầu chỉ có 25m2, nhưng cũng đã phát hiện được một ngôi mộ nằm ở độ sâu 3 m. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy biên mộ rất rõ ràng. Ngôi mộ còn gần như nguyên vẹn trừ xương đùi bên trái bị mất - có thể do người đời sau đào hố trúng mộ và cũng không loại trừ tổ mối làm hủy hoại. Chưa rõ vì lý do nào, nhưng tìm thấy bằng chứng xương mác bên phải bị gẫy nhưng đã liền lại. Đặc biệt có tục nhuộm răng đen và tục nhổ răng cửa bên hàm trên và toàn bộ răng cửa hàm dưới. Rõ ràng đây không phải là răng bị rụng, vì nếu rụng thì cung hàm phải để lại dấu vết của các huyệt răng. Trong khi đó, bộ xương này thấy cung hàm dưới chỗ bị nhổ đã liền lại tạo thành một dìa sắc cạnh.

 Những di cốt người cổ tìm thấy ở Đồng Đậu được xác định có niên đại  bằng phương pháp các bon phóng xạ (C14) cho thấy lớp sớm nhất ở Đồng Đậu có niên đại 3.500 năm trở về trước. Ba tầng văn hóa còn lại thì phát hiện thêm được các hiện vật bằng đồng.

Các giai đoạn văn hoá khảo cổ theo quá trình diễn tiến liên tục tại di tích khảo cổ Đồng Đậu đã khẳng định rất rõ là: Lớp sớm nhất từ Phùng Nguyên, tiếp theo đến Đồng Đậu, Gò Mun và cuối cùng là Đông Sơn. Và cũng chính vì vậy, từ di tích Đồng Đậu mà các nhà khảo cổ học Việt Nam có cơ sở khoa học để xác định tiêu chí cho các giai đoạn phát triển văn hoá vùng lưu vực sông Hồng:

 Con người có mặt sớm nhất ở đây thuộc giai đoạn muộn của văn hoá Phùng Nguyên, họ đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đá nguyên thuỷ, mài nhẵn, đẹp, các đồ trang sức đá tinh xảo, bắt đầu xuất hiện kỹ thuật luyện kim đồng.

Đồ gốm chế tạo bằng bàn xoay, thanh thoát, cân đối, đẹp, hoa văn tiêu biểu là đồ án khắc vạch, chấm dải, đối xứng.

Nghề trồng lúa nước đã phát triển, phát hiện nhiều hạt thóc, gạo cháy trong tro than.

dong-dau-12-1674317541.jpg

Một góc Gò Đồng Đậu (Yên Lạc - Vĩnh Phúc). Ảnh: Nguyên Tiến Dũng.

 

Tiếp theo là giai đoạn Đồng Đậu với yếu tố đặc trưng là công cụ đá giảm, đồ gốm dày, độ nung cao, hoa văn trang trí với mô típ khuông nhạc, chải thành những đồ án: Chữ S, số 8, đối xứng; đồ xương, sừng phát triển; kỹ thuật đúc đồng trở thành yếu tố chủ đạo.

Lớp thứ 3 thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun, đồ đá còn lại ít, đồ xương sừng hiếm, gốm thô, độ nung cao hơn 2 giai đoạn trước, chủ yếu là loại miệng loe gãy, hoa văn khắc vạch trang trí chủ yếu trên thành miệng.

Lớp trên cùng thuộc giai đoạn văn hoá Đông Sơn, do bề mặt di chỉ đã bị cày xới từ khi chưa được phát hiện nhưng những di vật được phát hiện rải rác thuộc phạm vi di chỉ, chủ yếu là các hiện vật đồng: Rìu xéo, giáo, dao mang tính đặc trưng của văn hoá Đông Sơn.

Với 4 giai đoạn văn hoá khảo cổ cùng có mặt trên một di chỉ, diễn biến phát triển liên tục, thể hiện một qúa trình định cư ổn định, lâu dài của cư dân Việt cổ để hình thành nên Nhà nước đầu tiên của dân tộc- Nhà nước Văn Lang thời đại Hùng Vương.

Đây chính là giá trị lớn lao nhất của di tích khảo cổ học Đồng Đậu, không riêng cho Vĩnh Phúc mà của cả Việt Nam và vùng Đông Nam Á. Đó là những bằng chứng vô cùng quý giá để tìm hiểu về phong tục, tập quán và đặc biệt là thành phần nhân chủng của người Việt cổ trên lưu vực sông Hồng. Phát hiện di cốt người cổ ở Đồng Đậu sẽ đóng góp vào những tư liệu khoa học làm sáng tỏ dần vấn đề “Nguồn gốc người Việt”  mà nhiều nhà khoa học còn đang gắng công tìm tòi, nghiên cứu.

Từ đó, có thể khẳng định Đồng Đậu cùng với hệ thống di tích khảo cổ  khác ở Yên Lạc và tỉnh Vĩnh Phúc là từ văn hóa Phùng Nguyên đến văn hóa Đông Sơn đã đưa quá trình mở đầu giai đoạn Hùng Vương dựng nước từ huyền thoại vào chính sử nhưng đang bị lãng quên, phí phạm, chưa được nghiên cứu, bảo tồn, phát huy để phục vụ phát triển kinh tế xã hội bền vững.
(Còn nữa)
V.X.B - N.T.D

Đón đọc Bài 2:  Khi nào “Dư án công viên Đồng Đậu” thành điểm du lịch văn hóa tâm linh?