Chuyện bên lề Hội nghị Paris bây giờ mới kể

Bài: Trần Mạnh Thường (sưu tầm)

23/12/2022 06:04

Theo dõi trên

Trong thời gian diễn ra Hội nghị Paris, tôi dược NXB Văn hóa Thông tin phân công sưu tầm biên soạn cuốn sách ảnh “Hội nghị Paris về Việt Nam”, để xuất bản. Nhờ vậy, tôi có điều kiện tiếp xúc với nhiều tài liệu vể hội nghị này.

Đồng thời tôi cũng có một số bạn bè, nhà báo theo dõi, tác nghiệp tại hội nghị, mà họ trực tiếp chứng kiến, hoặc nghe qua các đồng chí trong đòan đàm phán. Những câu chuyện họ kể hoặc tôi sưu tầm được đã để lại trong tôi những ấn tượng khó phai mờ.

Đoàn đàm phán của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (gọi tắt Đoàn Việt Nam) gồm 37 thành viên, nên gọi là Đoàn 37, do Bộ trưởng Xuân Thuỷ làm Trưởng đoàn và ông Lê Đức Thọ làm cố vấn.

d1hoi-nghi-paris-khai-mac-1671719179.jpg
Hội nghị paris khai mạc.

 

Khi đoàn đặt chân đền Paris, ông Mai Văn Bộ, Tổng Đại diện Việt Nam tại Pháp cho rằng đây là phái đoàn rất quan trọng, có tính quyết định vận mệnh quốc gia, nên ông muốn bố trí đoàn ở một nơi đàng hoàng, sang trọng để mọi người biết “mình là ai?”. Ông đưa đoàn đến ở khách sạn 5 sao Lutétia, số 45 đại lộ Raspail, trung tâm Paris. Ông còn bắt khách sạn treo cờ đỏ sao vàng trước cửa để đón đoàn.

Ở được vài ba hôm, nhân viên khách sạn đưa cho Trưởng nhóm lễ tân của đoàn là bà Vũ Thị Đạt tờ hoá đơn thanh toán. Nhìn thấy số tiền ghi trên hoá đơn, bà Đạt toát mồ hôi! Cuối cùng đoàn quyết định chuyển chỗ ở và nhờ Đảng Cộng sản Pháp giúp.

d2sau-5-nam-kien-tri-dam-phan-va-hiep-dinh-paris-duoc-ky-ket-1671719256.jpg
Sau 5 năm kiên trì đàm phán, Hiệp định Paris được ký kết.

 

Đảng Cộng sản Pháp cử hai đồng chí Gasto Plissonnier (Bí thư TW Đảng) và Elie Mignot, giúp đoàn ta. Sau khi bàn bạc đồng chí Gaston bố trí đoàn ở Trường Đảng của Đảng CS Pháp, còn goi “Trường Đảng Maurice Thorez”. Nơi đây là một địa điểm lý tưởng có đầy đủ tiện nghi cho đoàn ăn ở và làm việc.Trong đó có có một căn nhà, trước đây Tổng Bí thư Maurice Thorez sinh thời đã ở, nay để Bộ trưởng Xuân Thuỷ và Cố vấn Lê Đức Thọ  sử dụng.

Để Đoàn VN ở đây, Đảng CS Pháp phải chuyển Trường Đảng tới một địa điểm khác ở Paris. Đến ngày Hội nghi kết thúc bạn đã không lấy đoàn ta bất kỳ chi phí nào bao gồm cả tiền thuê nhà, số cán bộ bạn cử đến phục vụ đoàn VN và đoàn Mặt trận, cũng như công việc bảo vệ, lái xe, cấp dưỡng, giặt là áo quần đều tự nguyện, không hưởng lương trong 4 năm rồng rã.

d3-bo-truong-ngoai-giao-viet-nam-ng-duy-trinh-ky-vao-hiep-dinh-paris-1671719300.gif
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh ký vào Hiệp định Paris.

 

Sau khi Đoàn Việt Nam và Mỹ nhất trí ngồi vào đàm phán, thì vấn đề đầu tiên cần phải giải quyết là họp ở đâu? Tất nhiên không phải ở Washington DC, Hà Nội  hay Sài Gòn. Cà hai đoàn và một số nước đưa ra 8 địa điểm: Nhưng bên này đồng ý địa điểm này, thì bên kia không nhất trí. Ngày 4/4/1968, sứ quán Mỹ ở Vientiane Lào thông báo cho sứ quan VN rằng Washington đề nghị hội nghị diễn ra ở Genève, Thuỵ Sỹ, nhưng VN đề nghị lấy Phnôm Pênh (Campuchia), nhưng Mỹ không chấp  nhận. Mỹ lại đưa ra 4 đề nghị khác: New Delhi (Ấn Độ), Jakarta (Indonésia) Vientiane (Lào) và Rangoon (Myanmar). Hà Nội không đồng ý và đề nghị lấy  Warsaw (Ba  Lan) làm nơi hội họp. Ban đầu Washington chấp nhận, nhưng sau đó họ đã thay đổi và đưa ra một danh sách gồm 10 địa điểm: Kabul (Afghanistan), Colombo (Sri Lanka), Kathmandu (Nepal), Kuala Lampur (Malaysia), Rawalpindi (Pakistan), Tokyo (Nhật Bản), Brusselles (Bỉ), Helsinki (Phần Lan) Vien (Áo) và Rome (Italia). Cuộc trao đổi của hai phía về địa điểm hội nghị đã kéo dài hơn một tháng trời, vẫn chưa đi vào đâu!. Cuối cùng, ngày 02/5/1968,  Việt Nam đề nghị lấy Paris (Pháp) làm nơi đàm phán và được phía Mỹ chấp thuận.

d4bo-truong-ngoai-giao-ng-thi-binh-ky-vao-hiep-dinh-paris-1671719365.gif
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình ký vào Hiệp định Paris.

 

Điều mọi người thắc mắc, tại sao Việt Nam lại đề nghị đàm phán ở Paris?Theo một nhà ngoại giao có tên tuổi cho biết:

Vì Paris là thủ đô của một nước lớn không chỉ ở châu Âu mà của cả thế giới, một trung tâm truyền thông toàn cầu. Một sự kiện xẩy ra, một tin tức được phát đi từ Paris thì ngay lập tức toàn nhân loại đều biết. Việt Nam muốn khơi dậy lương tri loài người yêu chuộng hoà bình  và công lý và Việt Nam và cũng muốn lập trường đó được công khai truyền đi cho dư luận thế giới hiểu và đồng tình ủng hộ.

Paris nơi có phong trào nhân dân Pháp yêu chuộng hoà bình và công lý, ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là Đảng CS Pháp, các tổ chức hữu nghị luôn luôn lên án sự xâm lược của đế quốc Mỹ, đòi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam.

Hơn nữa, Paris nơi có phong trào Việt kiều yêu nước phát triển mạnh với số lượng nhiều nhất trên thế giới. Phong trào yêu nước của Việt kiều ở Pháp có bề dày lịch sử hơn một thế kỷ và do chính Bác Hồ xây dựng trong những năm tháng Bác hoạt động ở Pháp.

Mặt khác, chính quyền Pháp lúc bấy giờ cũng không đồng tình với sự xâm lược Việt Nam của Mỹ.

Pháp vui mừng vì được Việt Nam và Mỹ chấp nhận họp ở Paris và nếu hội nghị thành công, Pháp có phần vinh dự. Chình vì vậy, Chính phủ Pháp tiếp đón phái đoàn ta từ khi đặt chân lên Paris và bảo vệ an ninh cho tất cả các hoạt động của Đoàn VN trong suốt 4 năm đàm phán. Phía Pháp chuẩn bị chu đáo phòng họp riêng với bàn ghế được thiết kế riêng phù hợp, để phục vụ hội nghị.

Khi hội nghị kết thúc thắng lợi, Chính phủ Pháp thông báo cho đoàn ta “miễn phí[A1] [A2] [A3] ”  toàn bộ cảc chi tiêu phục vụ hội nghị. Và sau đó ít lâu, Pháp và Việt Nam [A4]  nâng cấp quan hệ ngoại giao  từ Tổng Đại diện lên hàng Đại sứ.

Hội nghi Paris gồm hai hội nghị: Hội nghị hai bên: VNDCCH và Mỹ, họp từ 13/5/1968 đến 1/11.1968 và Hội nghị 4 bên: VNDCCH, Mỹ, Đoàn Mặt trận và VNCH, họp từ ngày 25/01/1969 đến 27/01/1973.

Hội nghị hai bên: Trưởng đoàn VN là Bộ trưởng Xuân Thuỷ, Trưởng đoàn Mỹ là nhà ngoại giao Averell Hariman. Trong thời gian hội nghị hai bên, kéo dài suốt 5 tháng, Đoàn VN chỉ đề nghị bàn một nội dung duy nhất: “Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc”, rồi sau đó mới  bàn sang vấn đề khác. Trong lúc đó Mỹ yêu cầu bàn cùng một lúc cả hai vấn đề: quân sự và chính trị. Phía VN kiên quyết không thảo luận bất cứ vấn đề nào khác, nếu Mỹ còn tiếp tục ném bom miền Bắc. Nhiều nhà ngoại giao khen “Ông Xuân Thuỷ tài thật”, suốt 5 tháng trời, trong các bài phát biểu của mình dài 4, 5 trang vào thứ 5 hàng tuần họp tại Kleber, chỉ [A5]  nhắc đi nhắc lại một yêu cầu: “Mỹ chấm dứt hoàn toàn và vô điều kiện ném bom miền Bắc Việt Nam”, nhưng Mỹ không chịu. Các nhà báo đã phải thốt lên: “Đây là cuộc nói chuyện giữa những người điếc”. Còn người phát ngôn của Đoàn VN ông Nguyễn Thành Lê viết: “Con kiến mà leo cành đào, leo phải cành cụt, leo ra leo vào”.

Cuối cùng ngày 30/10/1968, Tổng thống Mỹ Johnson buộc phải tuyên bố: “Chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam hoàn toàn vô điều kiện”. Từ đó hai đoàn bắt đầu thảo luận về hội nghị tiếp theo để giải quyết các vấn đề khác ở miền Nam Việt Nam.

Đầu năm 1969, cuộc đàm phán bước vào giai đoạn mới: Đó là giải quyết vấn đề quân sự, chính trị ở miền Nam VN. Để giải quyết vấn đề này, cả hai bên [A6]  nhất trí rằng: Phải có mặt các bên ở miền Nam VN. Đoàn Việt Nam đề nghị có đại diện  Mặt trân, phía Mỹ có đại diện VNCH. Hội nghị hai bên, giờ đây trở thành hội nghị 4 bên. Nhưng đoàn VN không công nhận VNCH và Mỹ không công nhận Mặt trận. Từ đó nảy sinh hình dáng chiếc bàn hội nghị: tròn, vuông, chữ nhật hay oval... Chiếc bàn giờ đây không còn là khái niệm hình học mà là vấn đề chính trị. Cuộc cãi vã về hình thù cái bàn kéo dài đến 2 tháng (từ 01/11/1968 – 25/01/1969). Cuối cùng hai bên nhất trí chiếc bàn hội nghị 4 bên hình tròn, kê hai đầu bàn tròn là hai bàn hình chữ nhật, làm bàn thư ký hội  nghị và từ đây cuộc họp 4 bên bắt đầu diễn ra.

Về Cố vấn Lê Đức Thọ cũng có nhiều chuyện để kể:  Báo chí phương Tây hồi đó săm soi nhất cử, nhất động của đoàn ta và Mỹ, đặc biệt các cuộc đàm phán riêng giữa Cố vấn L.Đ.Thọ và Kissinger họp trong phòng, mà vẫn có phóng viên thuê nhà bên cạnh, dỡ cả mái ngói để trèo lên dùng máy ảnh ông kính chụp xa chĩa sang để chụp hai ông cố vấn họp xong ra cửa có bắt tay nhau không, có cười không, mặt lạnh như tiền hay cười rạng rỡ... Có lần cuộc họp giữa hai ông rất căng thẳng, quyết liệt, kết quả chửa ngã ngũ, nhưng không hiểu sao, các báo đồng loạt đưa tin “hình như đàm phán có tiến triển”. Thì ra do họ chụp được Cố vấn L. Đ. Thọ đang cười ( tuy chưa rõ ông cười vì cái gì?). Ở Hà Nội theo dõi tin,thấy vậy gọi sang hỏi tình hình, sao đồng chí L. Đ. Thọ cười?. Cố vấn L. Đ. Thọ mới lộ ra rằng: “Tôi không cười thì khóc à ! Bởi Kissinger bắt tay tôi chặt đau quá!”.

Một lần khác, Cố vấn L. Đ. Thọ và Trưởng đoàn Xuân Thuỷ lên xe của một đồng chí người Pháp đi cổng sau chạy thắng tới nơi họp. Trong lúc đó, đoàn xe chính thức của đoàn (loại xe xịn, khi đi kéo kính lên nhìn vào bên trong không nhìn thấy) chạy ra cổng chính, bảo vệ mở cửa, lính gác bồng súng chào như bình thường, thế là cánh nhà báo thi nhau lên xe máy chạy bám theo. Đi được một lúc, ngó nghiêng mãi , bỗng các tay săn ảnh mới phát hiện ra họ bị “bé cái nhầm”. Bắt đầu quay đầu xe. Trong lúc xe hở hai ông đã đến nơi họp được giữ kín.

Do phía Mỹ lật lọng, những gì hai bên đã thoả thuận, khiến Hiệp định thay vì được ký ngày 20/10/1972, nhưng không ký được. Nhưng do thất bại thảm hại tại trận “Điện Biên Phủ trên không Hà Nội” , ngày 8/01/1973 buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán 4 bên.

Trở lại Paris lần này với cách người chiến thắng, Cố vấn Lê Đức Thọ đề nghị cả đoàn không ra đón Đoàn Mỹ như thông lệ. Tại cuộc họp 4 bên, Cố vấn L.Đ. Thọ nổi nóng, trút hàng loạt từ xấu xa như: lừa dối, tráo trở, lật lọng, ngu xuẩn...lên đầu Cố vấn Kissinger, khiến ông ta không hé được nửa lời. Mãi về sau Kissinger mới nhỏ nhẹ đề nghị Cố vấn L. Đ. Thọ nói khẻ, không các nhà báo ở ngoài nghe thấy, lại đưa tin “Ông đã mắng người Mỹ”. Nhưng L. Đ. Thọ vẫn không buông tha “Đó là tôi chỉ nói một phần, chứ còn các nhà báo họ còn dùng nhiều từ nặng hơn nữa kia”.

Trong một dịp khác Kissinger lại hỏi “Ông Cố vấn đàm phán với tôi, nói như mắng mỏ tôi. Thế sau này kết thúc đàm phấn, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình, thì ông Cố vấn[A7]  mắng ai? Ngài có mắng cán bộ của mình như mắng tôi không?”.

Cố vấn L. Đ. Thọ điềm nhiên: “Tôi chỉ  nói lên  tiếng nói của nhân dân tôi thôi. Cán bộ tôi có quay quắt, lật lọng, tráo trở đâu mà tôi phải mắng” .

Thành công của Hội nghị Paris là kết quả của đấu tranh không khoan nhượng, kết hợp chặt chẽ của 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Và có thể nói không có Hiệp định Paris thì không thể có Chiến dịch[A8]  Hồ Chí Minh lịch sử  giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Hội nghị Paris đã qua nửa thế kỷ, là bài học quý báu về đường lối ngoại giao nhân dân của[A9] [A10]  Đảng ta có “lúc cương lúc nhu”, nhưng dù trong hoàn cảnh nào vẫn phải luôn luôn giữ vững lập trường: Độc lập dân tộc,  thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ và chủ nghĩa xã hội.

T.M.T

Bạn đang đọc bài viết " Chuyện bên lề Hội nghị Paris bây giờ mới kể" tại chuyên mục Diễn đàn. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn