Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp - Người khởi xướng ý tưởng xây dựng chính sách Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng

Kết Nối Người Họ Đặng(Sưu tầm và biên soạn)

04/02/2023 19:16

Theo dõi trên

Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp (1928-2008), bí danh Đặng Hùng; nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Huân chương Độc lập hạng Nhất.

Đặng Vũ Hiệp quê gốc tại Cự Đình, Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; sinh năm 1928 tại Đức Thắng, Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang; là cựu học sinh Trường Bưởi. Ông từng giữ chức Chính ủy Bộ Tư lệnh tiền phương trong các chiến dịch Đak Siêng, Chiến dịch Xuân 1969, Chiến dịch Đăk Tô-Tân Cảnh, và đặc biệt nhất là chiến dịch đánh Sư đoàn kỵ binh bay số 1 - một đơn vị mạnh nhất của lục quân Mỹ ở Tây Nguyên vào tháng 11 năm 1965.

b1abc7-1675502756.jpg

Đại tướng Chu Huy Mân (thứ ba, hàng đầu từ trái qua) và Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp (ngoài cùng bên phải) cùng một số cán bộ chiến sĩ của Binh đoàn Tây Nguyên - Ảnh tư liệu.

 

Tháng 3 năm 1975, Đặng Vũ Hiệp là Chính ủy Quân đoàn 3, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên và Quân đoàn 3, tham gia chỉ huy Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Năm 1976, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV. Tháng 11 năm 1977 -1984, Đặng Vũ Hiệp được bổ nhiệm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND VN, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, được thăng hàm cấp Thiếu tướng.

Ông là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V (nhiệm kỳ 1982-1986). Tháng 6 năm 1981, ông được thăng hàm cấp Trung tướng. Năm 1984, Bộ Chính trị chỉ định làm Ủy viên Hội đồng Quân sự Bộ Quốc phòng. Năm 1985, ông được chỉ định làm Ủy viên Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương. Tháng 6 năm 1988, Đặng Vũ Hiệp được phong hàm Thượng tướng.

Ngày 17/12/2003, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp được phân công là Chủ tịch Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam. Ông qua đời vào ngày 11/4/2008 tại Hà Nội, hưởng thọ 80 tuổi.

Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp là bác ruột của Trung tướng Đặng Vũ Sơn (nguyên Trưởng Ban Cơ yếu Chính phủ) - Trưởng Ban Vận động thành lập Hội đồng Họ Đặng Hà Nội.

Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một bài viết kỷ niệm chân thực và xúc động của Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu (nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Quốc phòng) về Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp…

*
Lần đầu tiên tôi gặp Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp là một buổi làm việc vào cuối tháng 10/1978 tại Văn phòng Tổng cục Chính trị. Hôm đó, với cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, ông triệu tập Phòng Chính sách - Cục Tổ chức lên báo cáo tình hình công tác chính sách và hậu phương quân đội. Thượng tá Nguyễn Hữu Quyền, Trưởng phòng là người trực tiếp báo cáo. Tham dự có tôi là Trợ lý nghiên cứu tổng hợp và mấy cán bộ khác của phòng. Ông gặp chúng tôi ở chân cầu thang của tòa nhà hai tầng. Khi bắt tay tôi, với thái độ thân tình, ông hỏi:

- Cậu là Đẩu à?

Tôi trả lời:

- Dạ vâng ạ!

Chắc là có ai đã nói trước với ông về tôi. Theo cấp bậc và tuổi tác, giữa cán bộ lớp lứa chúng tôi với Thủ trưởng cấp Tổng cục, cấp Bộ hồi đó là một khoảng cách lớn. Ấn tượng đầu tiên của tôi, một Đại úy mới tròn 30 tuổi ngưỡng mộ chăm chú nhìn ông, một Thiếu tướng còn khá trẻ (năm đó ông tròn 50 tuổi), tóc muối tiêu, gương mặt hồng hào, mang kính cận, dáng cao to, tiếng nói trầm ấm, khúc chiết, đĩnh đạc. Khi nghe báo cáo, ông chăm chú lắng nghe, ghi chép vào một quyển sổ nhỏ, thỉnh thoảng trao đổi một số vấn đề mấu chốt, có chỗ ông dừng lại hỏi thêm. Sau cùng, ông có những nhận xét chính xác, sắc sảo, thể hiện trình độ hiểu biết sâu, vừa có tính lý luận, vừa giàu thực tiễn, thẳng thắn chân thành, có chính kiến và quyết đoán.

Có thể nói, hồi đó ông Đặng Vũ Hiệp là vị tướng trẻ, có trình độ văn hóa, được rèn luyện trưởng thành từ cơ sở lên tới cán bộ trung đoàn trong kháng chiến chống Pháp, lại được đào tạo cơ bản, rồi làm Chủ nhiệm Khoa ở Học viện Chính trị. Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông có hơn 10 năm ròng rã lăn lộn chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên. Ông từng là Chính ủy Tiền phương Mặt trận Tây Nguyên trong nhiều chiến dịch lớn: Chiến dịch Đăk Xiêng, Chiến dịch Đăk Tô - Tân Cảnh, đặc biệt là Chiến dịch Plây Me tháng 11/1965. Chiến dịch Plây Me là trận đọ sức đầu tiên của quân chủ lực ta với Sư đoàn Kỵ binh bay số 1-một đơn vị mạnh nhất của Lục quân Mỹ. Ông đã cùng ông Nguyễn Hữu An chỉ huy Trung đoàn 66 dũng mãnh tấn công tiêu diệt 1 tiểu đoàn và tiêu hao 1 tiểu đoàn khác của quân Mỹ. Chính tướng Mỹ G.Moore, sau này đã nhận định rằng: “Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam”. Mười năm sau, tháng 3/1975, ông đã cùng các ông Hoàng Minh Thảo, Vũ Lăng chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Tây Nguyên, mở màn bằng trận chiến lịch sử Buôn Ma Thuột…

Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp không chỉ là một nhà chính trị, một vị tướng trận mạc, mà còn là vị tướng sắc sảo trong vai trò chỉ đạo Công tác Đảng - Công tác chính trị nói chung và Công tác chính sách nói riêng ở cấp Chiến lược.

Tôi nhớ, có một lần vào đầu năm 1980, trước khi trình lên trên về Đề án tiền lương, phụ cấp quân đội, Tiểu ban nghiên cứu cải cách tiền lương của Bộ Quốc phòng do Cục trưởng Cục Tài chính Lê Khoa chủ trì thông qua ông. Trong Đề án, có mục Phụ cấp thâm niên vẫn giữ mức tối đa 25% trên nền lương chính như chế độ hiện hành. Nhưng đến phần thảo luận tham gia ý kiến, tôi không nhất trí. Tôi phát biểu với lập luận rằng, nếu để mức tối đa 25% là không đúng với bản chất cũng như tên gọi Phụ cấp thâm niên. Hơn nữa, khi Nhà nước ban hành chế độ tiền lương năm 1960, thì tuổi quân của cán bộ quân đội ta cao nhất hồi đó mới là 16 năm, hưởng Phụ cấp thâm niên là 16%. Đến nay, quân đội ta đã qua 36 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, nếu để ở mức tối đa 25% là không hợp lý. Vì vậy, tôi đề nghị Sĩ quan phục vụ quân đội bao nhiêu năm được hưởng Phụ cấp thâm niên ngần ấy phần trăm. Ý kiến tôi được anh Lê Khoa tán thành, nhưng đa số thành viên cuộc họp không đồng ý, với lập luận mọi khoản phụ cấp theo lương không vượt quá 1/4 lương chính. Nhưng tôi nghĩ, cái chính có thể là, người ta không quen nghe ý kiến có tính phản biện của một cán bộ trẻ cấp úy trong cuộc họp mà phần đông là cán bộ cao cấp lớn tuổi. Khi đứng dậy kết luận, ông Đặng Vũ Hiệp nói: “Cá nhân tôi đồng ý với ý kiến của đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu, nhưng hội nghị phải kết luận theo đa số. Tôi hẹn nhé, bây giờ đồng chí là Đại úy, chờ đến khi nào đồng chí lên tới Đại tá, Cục trưởng Chính sách thì tiếp tục đưa kiến nghị này ra. Và tôi cho rằng, sẽ được chấp thuận…”. Câu nói có tính dự báo hồi đó của ông, 13 năm sau (năm 1993) là hoàn toàn đúng.

Thời gian ở Văn phòng Tổng cục Chính trị, tôi cùng sinh hoạt một tổ Đảng với ông. Có lần, kiểm điểm đảng viên cuối năm 1989. Đến lượt tôi, ông Hiệp góp ý là: “Tôi thấy đồng chí là cán bộ có năng lực, hăng hái, nhanh nhẹn, thẳng thắn, bộc trực. Thẳng thắn, bộc trực thì tốt, nhưng ở đời cái gì cũng vậy, thái quá thì sẽ bất cập. Cần lưu ý điều chỉnh để có phương pháp ứng xử phù hợp hơn. Cán bộ công tác ở Văn phòng càng phải chú ý điều này”. Ngẫm kỹ, tôi thấm thía những điều góp ý chân thành, thẳng thắn của ông.

Trong đời sống cũng như trong công việc, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp là con người nghĩa tình. Tháng 4-1994, tôi cùng ông lên Điện Biên Phủ để kiểm tra việc chuẩn bị về mặt chính sách (nghĩa trang liệt sĩ, bia kỷ niệm) phục vụ cho Lễ kỷ niệm 40 năm Ngày Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/1994). Ông cùng tôi đến từng nghĩa trang, bia kỷ niệm, xem xét việc tu bổ từng khu mộ liệt sĩ. Theo danh sách của Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị cung cấp, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội gắn tên liệt sĩ bằng chữ đồng lên các bức tường lớn bao quanh Nghĩa trang A1.

Vào giữa năm 1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng nghe Tổng cục Chính trị báo cáo về việc tìm kiếm, cất bốc, quy tập mộ liệt sĩ hy sinh trong các cuộc chiến tranh. Là Cục trưởng Cục Chính sách, tôi trở thành phụ tá cho ông. Sau khi ông thay mặt Tổng cục Chính trị trình bày báo cáo, Tổng bí thư Đỗ Mười nêu một số vấn đề chính cần xem xét. Ông nói đại ý rằng: Cuộc chiến tranh quyết liệt, lâu dài để lại những hậu quả to lớn. Về chính sách, đến nay Đảng và Nhà nước ta chưa có một hình thức khen thưởng xứng đáng và chưa có một chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những bà mẹ đã hiến dâng nhiều người con cho Tổ quốc.

Tổng bí thư Đỗ Mười vừa đi vòng quanh bàn hội nghị, vừa phát biểu vừa như thể tiếp tục suy nghĩ, xem xét. Trong lúc đó, Đặng Vũ Hiệp nói xen vào: “Thưa Tổng bí thư! Bản thân tôi có người em út tên là Đặng Vũ Tân, hy sinh ở chiến trường Quảng Trị năm 1972. Từ ngày báo tử, bao nhiêu năm rồi mẹ tôi vẫn đắp cái chăn là di vật của em Tân. Đến ngày mẹ tôi từ trần, gia đình chúng tôi lấy cái chăn ấy khâm liệm cho cụ. Khi mẹ tôi còn sống, cứ mỗi lần tôi về, cụ nói mà như trách cứ tôi rằng, con làm tướng mà không tìm được mộ em con đưa về đây cho mẹ thì nói làm gì”. Nghe vậy, Tổng bí thư nói: “Đúng đấy! Cụ mắng cậu là phải. Ở bất cứ nơi đâu, người mẹ liệt sĩ nào cũng vậy thôi. Chính các mẹ là người hy sinh lớn nhất”. Từ hội nghị đó đã hình thành nên ý tưởng xây dựng Đề án chính sách “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

Tôi đã được cùng ông nhiều lần đi thực tế kiểm tra công tác thực hiện chính sách ở nhiều địa phương trong cả nước. Từ đồng bằng Bắc Bộ, Miền Trung và Nam Bộ, đến đâu, sau khi nghe báo cáo, ông đều dành thời gian đi thăm các đối tượng chính sách và anh em cán bộ chính sách ở cơ sở. Bằng vốn sống thực tế ở chiến trường trong nhiều năm, hiểu được những khó khăn, phức tạp trong việc thực hiện chính sách, lại thâm nhập xem xét phát hiện những vấn đề nổi cộm ở cơ sở, đã góp phần giúp ông có những ý kiến chỉ đạo sáng suốt, kịp thời, có hiệu quả ở cấp chiến lược.

Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp từ trần ngày 11/4/2008, do căn bệnh hiểm nghèo. Trước đó, nghe tin ông lâm trọng bệnh đang điều trị ở Khoa A11 - Viện quân y 108, tôi đã vào thăm. Tới cửa buồng bệnh, tôi gặp bà Nguyễn Thị Quí, vợ ông và anh Đặng Vũ Thái, con trai cả của ông, là cán bộ Cục Xe - Máy thuộc Tổng cục Kỹ thuật. Bà Quí và anh Thái đều rưng rưng nói với tôi, ông ốm nặng lắm rồi. Tôi vào buồng bệnh, dẫu đã biết trước, nhưng vẫn thấy bất ngờ. Ông gầy xọp đi hàng chục cân, mắt trũng sâu, da sạm đen, gương mặt khác hẳn. Ông mở mắt nhìn tôi, hơi thở nông, thều thào nói ngắt quãng: "Đẩu đấy à,… mình mệt lắm rồi…". Tôi cầm tay ông, nghẹn ngào không nói nên lời, rồi không cầm được nước mắt.

Được làm cấp dưới trực tiếp của Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp trong nhiều năm, với tôi là một điều may mắn. Bài viết này như một nén hương lòng, một lời tri ân của tôi đối với ông - người Thủ trưởng kính mến, người Thầy nhân hậu tài ba; người đã khởi xướng ý tưởng xây dựng Đề án chính sách “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

Trái tim người lính