Theo yêu cầu nhiêm vụ, đầu tháng 4/1975, Đại úy Ma Thanh Toàn – Trung đoàn phó Trung đoàn 95 (sau này là Trung tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 2, hiện nay đã nghỉ hưu) ra lệnh cho Tiểu đoàn 2: “Lập ra một Đại đội tinh nhuệ gồm 30 chiến sĩ do Trung úy Nguyễn Văn Tựu – Tiểu đoàn phó trực tiếp chỉ huy, phối hợp với các đơn vị bạn đi giải phóng đảo Song Tử Tây”. Trung sĩ Đinh Quốc Lập, khi đó là Trung đội phó của Đại đội 5, Tiểu đoàn 2 là một trong số cán bộ, chiến sĩ xung phong tham gia nhiệm vụ đặc biệt này.
Nửa đêm ngày 10/4/1975, đội cảm tử quân với gần 100 chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 95), Đoàn đặc công 126 (Hải quân), Tiểu đoàn đặc công 407 (Tỉnh đội Khánh Hòa) lên 3 tàu cá của ngư dân thẳng hướng biển đông. Để che mắt địch, toàn bộ vũ khí, trang bị được để trên boong tàu và phủ lưới che kín, còn các chiến sĩ chui xuống hầm cá ẩn nấp. Ban đêm, bộ đội thay phiên nhau lên boong tàu đứng cho dễ chịu, mỗi lần có tàu hoặc máy bay lạ xuất hiện họ lại chui vào khoang. Chưa đi biển bao giờ, ông Lập và nhiều chiến sĩ bị say sóng mệt lả, chỉ nôn ói mà chẳng ăn uống, ngủ nghỉ được tí nào.
Lênh đênh suốt 3 ngày, tối 13/4/1975, khi gần đến Song Tử Tây, các tàu buông neo, thả xuồng cao su để bộ đội bí mật tiếp cận đảo. Không có điều kiện và thời gian trinh sát trước song các cảm tử quân luôn động viên nhau hoàn thành nhiệm vụ dù phải hy sinh. Bị đánh bất ngờ, song địch chống trả khá quyết liệt. Sau gần 2 giờ chiến đấu kiên cường, ta đã giải phóng hoàn toàn Song tử Tây. Trung úy Nguyễn Văn Tựu – Tiểu đoàn phó yêu cầu các bộ phận giải quyết tốt công tác thương binh, tử sĩ (ta có 1 đồng chí hi sinh, 1 đồng chí bị thương nặng), thực hiện chính sách tù hàng binh, tập trung canh phòng cẩn mật và cho bộ đội nghỉ ngơi lấy lại sức. Sáng 15/4, anh Tựu cùng một bộ phận áp giải số tù binh về quân cảng Cam Ranh. Lực lượng còn lại tiếp tục canh giữ đảo. Ít ngày sau, tại Song Tử Tây, Đinh Quốc Lập vinh dự được kết nạp đảng.
Là người trực tiếp bồi dưỡng và giới thiệu ông Lập vào Đảng, Đại tá Hoàng Chiến Nở, nguyên phó Chỉ huy trưởng về Chính trị, Ban CHQS huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai (hiện nay đã nghỉ hưu), nguyên Trung đội trưởng, Phó Bí thư chi bộ Đại đội 5, nhớ lại: “Đồng chí Lập là thiện xạ B41, rất mưu trí, gan dạ, từng bắn cháy hàng chục xe quân sự của địch trên đèo Mang Yang. Khi cả đoàn chuẩn bị lên tàu ra Trường Sa, đồng chí Chính trị viên Tiểu đoàn đã đưa cho tôi một bộ hồ sơ và căn dặn: “Đây là quyết định kết nạp đảng của đồng chí Lập. Sau khi giải phóng trường Sa, anh hãy thay mặt chi bộ tổ chức lễ kết nạp đảng cho đồng chí ấy”. Thực hiện chỉ đạo của cấp trên, sáng 24/4/1975, sau 2 giờ huấn luyện bổ sung, tôi triệu tập chi bộ để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt mà cấp trên giao. Hội nghị diễn ra cạnh bờ biển phía đông đảo, có 5 đảng viên tham dự. Không có bàn ghế nên các đảng viên đều phải đứng, lá cờ đảng được anh em treo trên thân cây dừa. Tuy gian khổ, thiếu thốn nhưng buổi lễ diễn ra rất trang trọng, thiêng liêng. Có lẽ đồng chí Lập là người đầu tiên được kết nạp đảng ở Trường Sa”.
Sau ngày giải phóng, ông Lập được cấp trên cử đi học rồi được phân công làm Đội trưởng Đội chuyên gia giúp bạn xây dựng chính quyền cơ sở trên đất bạn Campuchia. Hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, ông đưa gia đình từ Hà Tây (nay là Hà Nội) vào Lâm Đồng làm kinh tế mới, được cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương tin tưởng giao đảm nhiệm nhiều chức vụ như chủ tịch hợp tác xã, xã đội trưởng, trưởng công an rồi phó chủ tịch xã… Trên bất cứ cương vị nào, ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nghỉ hưu, ông là một trong những cựu chiến binh tiêu biểu của huyện trong phát triển kinh tế và nuôi dạy con cái, được nhiều người biết tiếng.
Trái tim người lính