Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 49)

Trân trọng giới thiệu sách “Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007)” của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh niên ấn hành.

Kỳ 49.

Với chiến thắng quân sự đông xuân 1953- 1954 mà đỉnh cao là Điện Biên Phủ, ta đã giải phóng được nhiều vùng đất đai rộng lớn,  nguỵ quân, nguỵ quyền tan rã, ta giành được quyền chủ động trên chiến trường cả nước. Với thất bại ở Điện Biên Phủ hình thức phòng ngự mới kiểu tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp vẫn bị ta tiêu diệt, đặt tất cả các hình thức phòng ngự yếu hơn trên chiến trường có nguy cơ sụp đổ .

b1adownload-1676108974.jpg
 

          Chiến thắng Điện Biên Phủ đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta, sự chuyển biến to lớn trong quá trình phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Điện Biên Phủ đã đưa cuộc kháng chiến của ta từ phản công cục bộ sang hình thái phản công trên toàn chiến trường Đông Dương. Điện Biên Phủ là trận quyết chiến chiến lược, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp của ta đến thắng lợi, buộc Pháp phải ký hiệp nghị Giơ nevơ, lập lại hoà bình ở Đông Dương trên cơ sở công nhân độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương .

          Chiến thắng Điện Biên Phủ có ảnh hưởng to lớn trên thế giới,  là chiến thắng của các dân tộc thuộc địa Á-Phi chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc. Địên Biên Phủ là một tiếng sấm vang rền báo hiệu thời kỳ bão táp của phong trào giải phóng dân tộc châu Á, châu Phi, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc. Điện Biên Phủ đã góp phần vào việc bảo vệ hoà bình thế giới.

          Thắng lợi của Điện Biên Phủ là kết quả của sự lãnh đạo chính trị, quân sự của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính nhưng biết tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới, tạo nên sức mạnh của dân tộc và sức mạnh quốc tế đè bẹp quân thù. Là Thắng lợi của sự đoàn kết chiến đấu hi sinh biết bao xương máu của nhân dân ta, của nhân dân hai nước bạn Lào và Cam pu chia. Là thắng lợi của sức mạnh bắt nguồn từ cuộc chiến tranh chính nghĩa cách mạng, chiến tranh nhân dân, sức mạnh của cả một dân tộc quyết tâm không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ một lần nữa. Chỉ tính riêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân ta đã đóng góp 25 vạn dân công với 3 triệu ngày công được huy động để phục vụ. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với các đơn vị công binh mở đường phá bom bảo đảm cho giao thông vận tải lưu thông. Trên hai vạn xe đạp thồ, xe trâu, xe bò, xe ngựa, hàng vạn thuyền bè đã được dùng chở hàng vạn tấn gạo, thực phẩm, đạn dược, thuốc men . . . ra mặt trận trên những tuyến đường dài 500 km .

          Tháng 1-1954, trong cuộc họp các Ngoại trưởng 4 nước ở Béc lin, theo đề nghị của Liên Xô, Anh, Pháp Mỹ đồng ý triệu tập Hội nghị Giơ nevơ gồm đại diện của 4 cường quốc Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và các bên có liên quan để giải quyết vấn đề chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương. Ngày 4-5-1954 phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hoà do đồng chí Phạm Văn Đồng, quyền Bộ trưởng ngoại giao dẫn đầu đến Giơnevơ. Ngày 8-5-1954 Hội nghị Giơnevơ bàn về vấn đề Đông Dương khai mạc. Cuộc đấu tranh ngoại giao gay gắt. Do thất bại ở Điện Biên Phủ, phía Pháp phải ký hiệp nghị Giơnevơ ngày 20  tháng 7-1954. Hiệp định gồm các nội dung chính như sau:

1. Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước Đông Dương .

2.  Hai bên cùng thực hiện ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải-Vĩnh Linh-Quảng Trị ) làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến. Giới tuyến quân sự có tính chất tạm thời, không thể coi là ranh giới chính trị và lãnh thổ .

3.  Cấm đưa quân đội và nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào ba nước Đông Dương. Các nước Đông Dương không được gia nhập khối liên minh quân sự và không được để các nước dùng lãnh thổ của mình để gây lại chiến tranh hoặc để phục vụ cho mục đích xâm lược .

4.  Việt Nam sẽ thực hiện thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do cả nước, được tổ chức vào tháng 7 -1956 dưới sự giám sát của Uỷ ban quân sự quốc tế (Ân Độ, Ba Lan, Ca na đa ) do Ân Độ làm Chủ tịch .

5 .  Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người ký hiệp định và những người kế tiếp nhiệm vụ của họ .

          Hiệp định Giơnevơ có ý nghĩa quan trọng đối vơí ba nước Đông Dương. Hiệp định là văn bản pháp lý quốc tế kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lập lại hòa bình ở ba nước Đông Dương, làm thất bại âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của giới hiếu chiến Pháp-Mỹ. Công nhận độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Camphuchia, thoát khỏi sự thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, trở thành những quốc gia độc lập. Hiệp định Giơnevơ là sự thắng lợi của đường lối kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị ngoại giao .

          Điện Biên Phủ là trận quyết chiến chiến lược đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Nếu so sánh lực lượng giữa ta và Pháp trên phạm vi Đông Dương sau Điện Biên Phủ thì ta có khả năng giải phóng cả nước, giải phóng toàn bộ Đông Dương trước sự sụp đổ hoàn toàn của Pháp trên khắp các chiến trường. Nhưng tại Giơnevơ, vấn đề Đông Dương đã trở thành vấn đề quốc tế, trở thành so sánh thế lực của hai hệ thống xã hội chủ  nghĩa và tư bản chủ nghĩa  trên phạm vi thế giới. Do nhiều lý do mà Giơ ne vơ có nhiều hạn chế, chưa phản ánh hết tầm cỡ chiến thắng do Điện Biên Phủ mang lại. Như Hiệp định chấp nhận hai chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà và chính quyền bù nhìn Bảo Đại ở miền Nam, chia cắt Việt Nam, giải quyết vấn đề quân sự đầu tiên, tách rời việc giải quyết vấn đề Việt Nam với vấn đề Lào, Campuchia thành ba vấn đề riêng biệt, không chấp nhận ý kiến của Việt Nam dân chủ cộng hoà lấy vĩ thuyến 13 làm giới tuyến quân sự tạm thời và yêu cầu của Việt Nam 6 tháng phải tổ chức tổng tuyển cử tự do cho cả  Việt Nam, Lào và Campuchia, yêu cầu Lào và Campuchia phải có hai vùng tập kết. Do đó “Giải pháp” Giơnevơ không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của nhân dân ta trên chiến trường.  Vì thế nó đã ngăn cản nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia giành thắng lợi hoàn toàn”. (BNCLSĐTƯ-Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-NXB Sự thật. H. 1982. Tr 726). Tuy nhiên với Điện Biên Phủ và với Giơnevơ nhân dân Đông Dương đã đánh bại cuộc xâm lược kiểu cũ của thực dân Pháp. 50 vạn quân Viễn chinh nhà nghề của Pháp bị tiêu diệt và tan rã, tiêu tốn 3.000 tỉ Frăng và 2,5 tỉ USĐ vay của Mỹ. Chín năm chiến tranh, Pháp đã thay đổi 8 tư lệnh quân đội ở Đông Dương, 20 lần chính phủ Pháp sụp đổ (tính đến tháng 3-1954 ). Thất bại này buộc thưc dân Pháp phải thừa nhận độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã bảo vệ, phát triển được thành quả của cách mạng tháng Tám, bảo vệ được chính quyền cách mạng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, miền Bắc đi lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã giáng đòn mạnh mẽ, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, dấy lên một cơn bão táp cách mạng có tính chất phản ứng dây chuyền ở hai châu lục này, làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa kiểu cũ. Vào những năm 60 của thế kỷ XX hàng trăm quốc gia độc lập ở châu Á-châu Phi ra đời làm cho bộ mặt chính trị của hành tinh thay đổi .

          Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp là do cuộc kháng chiến của ta đặt dươí sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã vạch ra đường lối chính trị, quân sự đúng đắn,  đường lối chính trị đoàn kết toàn dân, đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ đoàn kết quốc tế. Đường lối trên phù hợp với qui luật của một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Trên cơ sở đó, ta mới triển khai được chiến lược chiến tranh. nghệ thuật quân sự và các chiến dịch để tiêu diệt lực lượng kẻ thù.

(Còn nữa)

CVL