Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 5)

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc tác phẩm “Lịch sử Việt Nam từ tiền sử đến năm 2007” của PGS TS Cao Văn Liên  do NXB Thanh niên ấn hành năm 2009.
cvl2-1624928624.jpg
Chú thích ảnh

Kỳ 5.

CHƯƠNG IV: THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN (KỶ X ĐẾN KỶ XV)

I: Các triều đại

Với chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nước ta từ giành quyền tự chủ tiến lên giành độc lập hoàn toàn, thoát khỏi ách thống trị của phong kiến Trung Quốc. Năm 939 Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng là Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh-Hà Nội). Ngô Vương bắt tay vào xây dựng một bộ máy nhà nước phong kiến qui củ, qui định nghi lễ trong triều, trang phục cho quan lại các cấp, phong tước vương cho các hoàng tử. Ngô Vương là người đặt nền móng cho việc xây dựng một quốc gia phong kiến tập quyền.

     Nhà Ngô do Ngô Quyền sáng lập, tồn tại 26 năm qua ba đời vua: Ngô Vương (939-944 ), Ngô Xương Ngập (Thiên Sách Vương (950-965 ), Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn (em Ngô Xương Ngập ) 950-965 .

     Năm 944, Ngô Vương mất, 11 thế lực phong kiến địa phương không phục tùng chính quyền trung ương, nổi dậy cát cứ gây nên cuộc “Loạn 12 sứ quân”, gây nên nội chiến chết chóc đau thương, phá vỡ sự thống nhất quốc gia, làm tiêu tan sức mạnh đoàn kết  để bảo vệ độc lập dân tộc còn non trẻ. Yêu cầu bức thiết  của lịch sử là phải khôi phục lại nền thống nhất đất nước và xây dựng chính quyền trung ương tập quyền vững mạnh. Người có công hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đó là Đinh Bộ Lĩnh (quê ở Hoa Lư-Ninh Bình). Bằng mưu lược quân sự tài giỏi, bằng tinh thần cương nghị, ông lần lượt tiêu diệt 11 sứ quân và thống nhất đất nước vào năm 968. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia đối với xu hướng cát cứ, là thắng lợi của tinh thần dân tộc, của ý chí độc lập mạnh mẽ.

     Sau khi thống nhất đất nước,  Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, định đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, lấy niên hiệu là Thái Bình. Việc xưng đế minh chứng triều Đinh tiến thêm một bước trên con đường khẳng định ý chí độc lập dân tộc. Đinh Tiên Hoàng định giai phẩm cho các quan văn võ. Phong Nguyễn Bặc làm Định Quốc Công, Lưu Cơ làm  Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, phong Vương cho các hoàng tử: Nam Việt Vương Đinh Liễn, Vệ Vương Đinh Toàn, sư Ngô Chân Lưu được phong Khuông Việt Đại sư làm cố vấn cho vua, tham dự triều chính. Cả nước được chia thành 10 đạo tương ứng với 10 đạo quân trong biên chế quân sự, dưới đạo là các công xã nông thôn mà đơn vị nhỏ nhất là làng, bản.

     Năm 979, Đỗ Thích,  một thuộc tướng trong triều đình đã giết chết Đinh Tiên Hoàng và con cả của ông là Nam Việt Vương Đinh Liễn. Vệ Vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên nối ngôi. Lợi dụng tình hình đó, Chiêm Thành đe doạ biên giới phía Nam, nhà Tống uy hiếp biên giới phía Bắc của Đại Cồ Việt. Vệ Vương Đinh Toàn còn nhỏ không đủ khả năng, uy tín tổ chức, lãnh đạo kháng chiến. Triều đình và Thái hậu Dương Vân Nga tôn Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn (quê ở Thọ Xuân-Thanh Hoá) lên ngôi vua, lập ra nhà Tiền Lê.

     Nhà Đinh do Đinh Bộ Lĩnh sáng lập trị vì được 14 năm trải qua hai đời vua: Đinh Tiên Hoàng (968-979), Vệ Vương Đinh Toàn ở ngôi 8 tháng năm 980.

     Nhà Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập. Sau khi lên ngôi ông xưng là Lê Đại Hành, quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư. Nhà Vua chăm lo phát triển kinh tế, phát triển nền chính trị của đất nước. Ở triều đình trung ương, Lê Đại Hành đặt ra chức Thái sư, Thái uý, Tổng quản, Đô chỉ huy sứ. Tổng quản trông coi hành chính, quân sự, Thái uý chỉ huy quân lữ, chia đất nước thành các đơn vị hành chính: lộ, phủ châu, xã. Năm 981, Lê Đại Hành đánh bại cuộc xâm lược qui mô to lớn gồm 20 vạn quân của nhà Tống vào Đại Cồ Việt do tướng Hầu Nhân Bảo chỉ huy. Năm 982 Lê Đại Hành thân chinh tự cầm quân vào tận Đồng Dương (Quảng Nam) đánh Chiêm Thành, ổn định biên giới phía Nam. Lê Đại Hành xây dựng quân đội thường trực trung ương hùng mạnh. Trên trán mỗi binh sĩ có khắc chữ”Thiên tử quân”.

     Năm 1005, Lê Đại Hành mất, Lê Trung Tông lên ngôi được 3 ngày thì bị em  là Lê Long Đỉnh giết chết  cướp ngôi. Năm 1009, Lê Long Đỉnh (Lê Ngoạ Triều) mất. Sự tàn bạo của Lê Ngoạ Triều làm cho lòng người chán ghét nhà Tiền Lê. Triều thần và giới phật giáo  tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn (quê ở Từ Sơn-Băc Ninh) là con rể của Lê Đại Hành lên ngôi lập ra nhà Lý.

     Nhà Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập tồn tại 29 năm, trải qua 3 đời vua: Lê Đại Hành (979-1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngoạ Triều (1005-1009).

     Nhà Lý (1009-1225) do Lý Công  Uẩn  sáng lập.  Sau khi lên ngôi , Lý Công Uẩn  xưng là Lý Thái Tổ, dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là Thăng Long. Năm 1054 đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Nếu như các triều Ngô-Đinh-Tiền Lê đặt nền tảng thì nhà Lý bắt đầu xây dựng một quốc gia phong kiến tập quyền hùng mạnh  trên cơ sở điền trang thái ấp. Vua nắm tất cả quyền lực nhà nước, xưng là Thiên Tử (con trời), thay mặt trời để cai trị nhân dân. Mệnh lệnh của nhà vua là lệnh của trời, chống lại vua là chống lại trời.

     Ở trung ương, nhà Lý đặt ra phẩm cấp 9 tước vị, đặt ra chức Tể tướng (Phụ quốc thái uý) là chức quan cao nhất, chỉ đứng sau vua,  đặt ra tam Thái: Thái sư, Thái bảo, Thái phó, đặt ra các Bộ thượng thư, tã hữu Tham tri, Bộ thị lang, tả hữu Lang trung, tả hữu Gián nghị đại phu, Điện học sĩ, Hàn lâm học sĩ. Ban võ đặt ra các chức Thái uý, Thiếu uý, Kiểm hiệu bình chương sự, Đô thống, Nguyên suý, Tổng quản. Nhà Lý xây dựng quân đội hùng mạnh nhiều cấp, nhiều thứ quân, thi hành chính sách “Ngụ binh ư nông” như những triều đại trước bảo đảm sản xuất và quốc phòng. Trên cơ sở sức mạnh quốc gia phát triển toàn diện, năm 1075-1076 –1077, nhà Lý  lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược qui mô to lớn của nhà Tống.

     Nhà Lý chia toàn quốc thành các đơn vị hành chính lộ, phủ, huyện, hương, giáp, thôn. Nơi xa trung ương gọi là châu (Châu Hoan, châu Ái ), miền núi gọi là trại.

     Nhưng cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, chính quyền họ Lý bước vào thoái hoá, suy vong. Lý do chính là các đời vua con,  vua cháu, quan con, quan cháu chỉ lo bóc lột nhân dân để ăn tiêu xa xỉ, không chăm lo phát triển kinh tế, đẩy nhân dân vào con đường đói khát đau thương. Nạn đói năm 1181 giết chết 1/2 dân số . Bất tài và vô trách nhiệm, vua Lý Huệ Tông bỏ đi tu ở chùa Chân Giáo, để lại ngai vàng cho con gái mới 7 tuổi là Lý Chiêu Hoàng. Toàn bộ quyền hành nằm trong tay dòng họ ngoại thích: họ Trần mà người tiêu biểu là Trần Thủ Độ.

     Năm 1225 do sự bố trí của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng  kết duyên cùng Trần Cảnh, sau đó Nữ Hoàng nhường ngôi cho chồng. Nhà Lý đi vào lịch sử. Vương triều mới được thành lập: Vương triều Trần.

     Nhà Lý do Lý Công Uẩn sáng lập tồn tại được 216 năm, trải qua 9 đời vua. Vua đầu là Lý Thái Tổ (1009-1028 )-19 năm .

     Lý Thái Tông (1028-1054 )-27 năm .

     Lý Thánh Tông (1054-1072 ) 17 năm .

     Lý Nhân Tông  (1072-1127 )-56 năm .

     Lý Thần Tông  ( 1128-1138 )-10 năm .

     Lý Anh Tông (1038-1175 )-37 năm .

     Lý Cao Tông (1176-1210 )-35 năm .

     Lý Huệ Tông  (1211-1225 )-14 năm .

     Lý Chiêu Hoàng (1225 ).

        Vương triều Trần ra sức xây dựng Đại Việt thành một quốc gia phong kiến phát triển  mọi mặt dựa trên cơ sở kinh tế điền trang thái ấp có từ thời Ngô -Đinh-Tiền Lê-Lý và ngày càng được mở rộng. Nhà Trần định đô ở Thăng Long, quốc hiệu Đại Việt. Nhà nước phong kiến chuyên chế tập quyền ngày càng hoàn bị rõ nét. Vua là người đứng đầu nhà nước, nắm tất cả các quyền lực cơ bản. Vua được thần thánh hoá là Thiên Tử. Trong triều đặt ra các chức Tam thái (Thái sư, Thái bảo, Thái phó) và Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu bảo, Thiếu phó), đặt ra chức Tam tư (Tư đồ, Tư mã, Tư không). Bên dưới có thêm  tả hữu Tướng quốc để giúp việc. Nhà Trần tiến sâu hơn một bước trong việc cai trị theo chuyên ngành, đặt ra 6 bộ, mỗi bộ do một Thượng thư đứng đầu. Còn có tả hữu Bộc xạ, Gián nghị đại phu, Lang trung, Trung thư lang quân. Đặt chức Ngự sử đại phu để đàn hạch, giám sát các quan. Còn thêm Thị ngự sử, Giám sát ngự sử,  Chủ thư thị ngự sử, Ngự sử trung tán, Ngự sử đại phu, Giám sát ngự sử, Tư đồ là Tể tướng, Tư mã phụ trách quốc phòng, tư pháp, Tư không coi sóc các công việc còn lại. Tam tư tướng quốc và Chức Đại hành khiển tham tri chính sự là những chức quan đứng đầu  các quan.

     Nhà Trần lập những cơ quan chuyên trách là các viện: Khu mật viện để tham nghị  triều sự, Hàn lâm viện soạn chiếu thư, Quốc sử viện biên soạn lịch sử, Quốc tử giám trông coi giáo dục, Thái y viện trông coi việc chữa bệnh, lo y dược trong cung. Bên ngoài triều có các chức quan An phủ, Trấn phủ, Tri phủ,  Thông phán, Kiểm phán, Tào vận lệnh,  Hà đê chánh sứ, Hà đê phó sứ, Đồn điền chánh phó sứ.

     Về quân sự có chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (chỉ phong cho Hoàng tử), Kim ngô vệ đại tướng quân, Vũ vệ đại tương quân, Thân vệ tướng quân, Đô thống chế, Kinh lược sứ, Phòng ngự sử, Quan sát sứ, Thủ ngự sử, Đô hộ thống, Tổng quản.

     Nhà Trần chia nước thành 12 lộ (thời Lý 24 lộ), dưới lộ là châu, huyện, xã. Quan lại nhà Trần dược cấp lương bổng. Quân đội bao gồm 3 thứ quân: Quân cấm vệ của triều đình, Quân các lộ (địa phương) và quân của các vương hầu. Nhà Trần lập ra Giảng võ đường để huấn luyện quân đội. Chính sách “Ngụ binh ư nông” ở các triều đại trước  vẫn được duy rì để bảo đảm sản xuất và bảo đảm quốc phòng.

     Các vua Trần sớm nhường ngôi cho Thái tử, lui về làm Thái Thượng Hoàng để rèn dạy cho vua trẻ, ngăn chặn việc cướp ngôi. Nhà Trần ban hành Bộ luật “Hình thư”, ‘Quốc triều thông chế’ gồm 20 quyển qui định về tổ chức chính quyền và qui chế hành chính. Các hoàng tử, thân vương nắm các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước phải là những người có tài năng. Không có tài năng chỉ được cấp điền trang thái ấp hưởng về kinh tế bổng lộc. Để phục vụ cho sự thống trị, nhà Trần đưa Nho giáo lên địa vị chủ yếu thay thế cho Phật giáo. Nho giáo chiếm ưu thế. Nho sĩ được trọng dụng trong bộ máy nhà nước. Nhà Trần chăm lo phát trển kinh tế, quan tâm đến đời sống của nông dân. Chính trị, kinh tế, văn hoá phát triển đã tạo nên sức mạnh to lớn để dân tộc ta lập nên võ công hiển hách thế kỷ XIII, đánh bại ba lần xâm lược của đế quốc Nguyên -Mông, một đế quốc hung bạo và to lớn nhất đương thời.

(Còn nữa)

CVL