Quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa phi vật thể - kinh nghiệm của Việt Nam

Rất cần có sự đồng thuận trước hết về những vấn đề đặc thù trong hoạt động quản lý DSVHPVT như: Đối tượng quản lý, công cụ quản lý và đặc biệt là vai trò của cộng đồng trong bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT. Thông qua bài viết này, chúng tôi muốn bàn sâu về những nội dung liên quan tới 3 vấn đề cơ bản nêu trên.
le-hoi-chua-keo1-1665369981.JPG
 

 

         Lời mở đầu

Việt Nam là một trong số ít các quốc gia thành viên của UNESCO đã sớm đưa di sản văn hóa phi vật thể (DSVHPVT) thành đối tượng điều chỉnh của Luật di sản văn hóa năm 2001, hai năm trước khi UNESCO thông qua Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Có thể nói, đây là một bước tiến vượt bậc của chúng ta trong nhận thức về di sản văn hóa (DSVH) nói chung và di sản văn hóa phi vật thể nói riêng. Năm 2009, sau hơn 10 năm thực hiện, triển khai các quy định cụ thể của Luật DSVH trong đời sống xã hội, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kịp thời sửa đổi, bô sung và ban hành bộ luật mới hoàn chỉnh hơn về DSVH, đặc biệt, đã bổ sung nhiều nội dung liên quan đến DSVHPVT.

Sự thực nêu trên chứng tỏ, Việt Nam đã và đang nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về tầm quan trọng của DSVHPVT như là “động lực chính của đa dạng văn hóa và là một sự đảm bảo cho sự phát triển bền vững” của toàn nhân loại. Mặt khác, việc biên soạn và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cũng là quá trình hoàn thiện từng bước và phải thích ứng với yêu cầu của thực tế đời sống xã hội cũng như sự thay đổi trong nhận thức khoa học. Vì vậy, rất cần có sự đồng thuận trước hết về những vấn đề đặc thù trong hoạt động quản lý DSVHPVT như: Đối tượng quản lý, công cụ quản lý và đặc biệt là vai trò của cộng đồng trong bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT. Thông qua bài viết này, chúng tôi muốn bàn sâu về những nội dung liên quan tới 3 vấn đề cơ bản nêu trên.

1. Mục tiêu, đối tượng và công cụ quản lý nhà nước về di sản văn hóa

Quản lý văn hóa đặt ra mục tiêu cơ bản là giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trước hết cần hiểu hiểu rõ, quản lý nhà nước về văn hóa, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa dạng của cộng đồng 54 dân tộc anh em hiện đang cư trú trong lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Và do đó, nhất thiết phải bằng các công cụ quản lý thích hợp tạo ra không gian tinh thần lành mạnh và dân chủ, cũng như các điều kiện cần thiết đảm bảo cho cộng đồng xã hội tham gia vào sự nghiệp đó. Nghĩa là, mọi người dân đều có quyền tiếp cận và hưởng thụ các giá trị văn hóa, đồng thời có nghĩa vụ đóng góp trí tuệ, công sức và tiền của cho sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa. Trong quản lý văn hóa, ngoài vai trò của Nhà nước, rất cần có cơ chế thực hành các hình thức tự quản của nhân dân, đảm bảo tính phong phú, đa dạng của văn hóa và đáp ứng tốt nhất các nhu cầu văn hóa của nhân dân, cũng tức là góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam - nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển bền vững. Để đạt được những mục tiêu cao nhất đặt ra trong quản lý văn hóa, chúng ta nhất thiết phải thiết lập và luôn hoàn chỉnh công cụ quản lý văn hóa sau đây:

- Xây dựng và hoàn thiện thể chế (cơ chế, chính sách, quy phạm pháp luật, quy hoạch...) làm công cụ chủ yếu phục vụ các yêu cầu quản lý.

- Quan tâm đúng mức/thỏa đáng việc đầu tư tài chính cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

- Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa cũng như thực hiện triệt để việc phân cấp quản lý, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp quản lý từ Trung ương tới địa phương.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và kịp thời uốn nắn những sai sót và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật làm suy giảm giá trị di sản văn hóa.

Trong công tác quản lý, việc nhận diện di sản cần xuất phát từ định nghĩa DSVHPVT trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009 và Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO.

Điều 2 Công ước 2003 xác định rõ:

“Di sản văn hóa phi vật thể" được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Vì những mục đích của Công ước này, chỉ xét đến những di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện Quốc tế hiện hành về quyền con người, cũng như những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá nhân,  và về phát triển bền vững”[i].

Điều 4 Luật di sản văn hóa định nghĩa:

“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác”[ii].

Từ hai định nghĩa nêu trên, ta có thể xác định rõ các yếu tố quan trọng cấu thành DSVHPVT:

  • Các giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học được biểu hiện dưới dạng: Các tập quán xã hội, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng cũng như các công cụ, đồ vật, đồ tạo tác… hỗ trợ cho các chủ thể trong việc thực hành DSVHPVT.
  • Không gian văn hóa (môi trường thiên nhiên và môi trường nhân tạo) nơi DSVHPVT được sáng tạo ra và đang tiếp tục được thực hành. Không gian văn hóa đó thể hiện khả năng thích nghi và khai thác của cộng đồng, nhóm người và cá biệt là các cá nhân đối với các điều kiện tự nhiên và lịch sử xã hội để sáng tạo và tái tạo DSVHPVT.
  • Cộng đồng, nhóm người, các cá nhân với tư cách là chủ thể văn hóa đã sáng tạo, nắm giữ và thực hành, tái tạo và liên tục trao truyền DSVHPVT từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bằng phương thức đó, các giá trị DSVHPVT được chắt lọc, kế thừa, kết tinh thành những tinh hoa văn hóa, góp phần bổ sung và làm giàu thêm cho kho tàng DSVH dân tộc.

Trong DSVHPVT, vấn đề bản sắc văn hóa của từng cộng đồng và quốc gia dân tộc cũng như việc tôn trọng sự đa dạng văn hóa cùng tính sáng tạo của con người cần được khích lệ. Có hai điều kiện tiên quyết để một đối tượng trở thành DSVHPVT là không gian sinh thái – nhân văn nơi di sản được sáng tạo ra và được các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân thừa nhận/công nhận là một phần DSVH của chính họ và tự nguyện bảo tồn và phát huy nó trong đời sống xã hội.

Ta thấy, DSVHPVT là của cộng đồng, thuộc về cộng đồng (chủ sở hữu), do cộng đồng sáng tạo ra nhằm phục vụ nhu cầu hưởng thụ tinh thần của chính họ. Vậy, cộng đồng phải là những người có quyền xác nhận, lựa chọn và ra quyết định các yếu tố của DSVHPVT cần được bảo vệ cũng như các phương thức bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT. UNESCO và các quốc gia thành viên không có quyền ra quyết định “xếp hạng” hay công nhận DSVHPVT thay cho cộng đồng. UNESCO thông qua Công ước 2003 với các Danh sách DSVHPVT đại diện của nhân loại, DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp và Danh sách DSVHPVT thực hành tốt không nhằm xếp hạng DSVHPVT mà là “ghi danh”/thừa nhận có một DSVHPVT thuộc về một cộng đồng cụ thể đang hiện diện trong một không gian sinh thái – nhân văn cụ thể mà thôi. Bởi vì trên phạm vi toàn nhân loại không tồn tại khái niệm cao hay thấp về văn hóa, nhất là trong lĩnh vực DSVHPVT. Tính đa dạng và tính bình đẳng về văn hóa là hai nguyên tắc tối quan trọng đang được thể hiện trong các Công ước của UNESCO mà tất cả các quốc gia thành viên bắt buộc phải tuân thủ. Tương tự như thế, tính đa dạng trong DSVHPVT cũng như tính bình đẳng văn hóa giữa các cộng đồng dân tộc, các địa phương trong lãnh thổ một quốc gia cũng cần được quán triệt sâu sắc.

Với nhận thức “các cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân người địa phương (bản địa) đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra, bảo vệ, duy trì và tái tạo DSVHPVT, từ đó, làm giàu thêm sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người”, UNESCO đã đặt ra những mục tiêu quan trọng của Công ước 2003 là:

“(a) Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể;

 (b) Đảm bảo sự tôn trọng đối với di sản văn hóa phi vật thể của các cộng đồng, các nhóm người và các cá nhân có liên quan;

(c) Nâng cao nhận thức ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế về tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể, để từ đó đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong lĩnh vực này;

(d) Tạo ra sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế”[iii].

UNESCO luôn khẳng định, đa dạng văn hóa là đặc trưng chung của nhân loại, đó cũng là điều kiện/tiền đề cho sự phát triển và sinh tồn của con người. Đa dạng văn hóa được coi là khởi nguồn của bản sắc, của đổi mới và sáng tạo, nó giúp liên kết cộng đồng quốc gia trên toàn thế giới. Tôn trọng sự đa dạng văn hóa cũng là sự thừa nhận khả năng cùng tồn tại của nhiều nền văn hóa khác nhau, các dạng thức văn hóa, các biểu đạt văn hóa khác nhau ở một vùng miền nói riêng hoặc trên phạm vi quốc gia cũng như toàn nhân loại nói chung.

Ta biết, văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa đa dân tộc, đó là nền văn hóa thống nhất trên cơ sở đa dạng nhiều sắc thái văn hóa tộc người. Tính thống nhất trong đa dạng văn hóa của Việt Nam được thể hiện sâu sắc nhất trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của 54 dân tộc anh em cùng sinh tồn lâu đời trên lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đa dạng văn hóa Việt Nam được thể hiện cụ thể qua: không gian văn hóa, sắc thái văn hóa tộc người và các dạng thức văn hóa phi vật thể.

Các nhà khoa học tương đối thống nhất trong việc phân vùng các không gian văn hóa Việt Nam:

- Vùng văn hóa Tây Bắc;

- Vùng văn hóa Việt Bắc;

- Vùng văn hóa Châu thổ Bắc Bộ;

- Vùng văn hóa Trung Bộ vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên;

- Vùng văn hóa Nam Bộ.

Trong 6 vùng văn hóa đó lại bao chứa sự đan xen, giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa nhiều sắc thái văn hóa tộc người cùng chung sống trong các vùng lãnh thổ cụ thể.

Đa dạng văn hóa Việt Nam còn được thể hiện rõ qua các sắc thái văn hóa tộc người và các hình thức biểu đạt di sản văn hóa phi vật thể như:

- Tiếng nói chữ viết;

- Ngữ văn dân gian;

- Nghệ thuật trình diễn dân gian;

- Tập quán xã hội và tín ngưỡng;

- Lễ hội truyền thống;

- Nghề thủ công truyền thống;

- Tri thức dân gian[iv].

Đến đây có thể khẳng định, tính thống nhất trong đa dạng văn hóa tộc người là bản sắc văn hóa độc đáo và nổi trội của Việt Nam. Theo quan điểm của TS. Hoàng Xuân Lương: “Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị vật chất và tinh thần tinh túy nhất, cô đọng nhất, bền vững nhất, là sắc thái cội nguồn, riêng biệt của mỗi quốc gia, làm cho dân tộc này không thể lẫn với các dân tộc khác”[v]. Theo cách hiểu như thế, có thể coi ý thức liên kết cộng đồng và lòng yêu nước là giá trị văn hóa phi vật thể đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Giá trị văn hóa phi vật thể đó được biểu hiện rõ nhất trong Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng mùng 10 tháng 3 (âm lịch) hàng năm trong không gian văn hóa thiêng liêng ở vùng núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được thừa nhận là loại hình di sản về tập quán xã hội và tín ngưỡng đã được UNESCO ghi danh trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tín ngưỡng đó mang giá trị đạo đức - truyền thống - nhớ ơn, tri ân, thờ cúng tổ tiên - những người có công với gia đình, dòng họ - với cộng đồng làng xóm, với quốc gia dân tộc. Tín ngưỡng đó được thực hành trong những thiết chế văn hóa, tín ngưỡng đặc thù là: Bàn thờ gia tiên trong từng gia đình - Nhà thờ tổ của dòng họ - Đình thờ Thành Hoàng làng - Đền thờ Hùng Vương, vị Vua Tổ của một quốc gia. Đó là mạng lưới thiết chế văn hóa tâm linh rộng khắp trên cả nước với các nghi thức và lễ hội truyền thống rất đa dạng.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là cội nguồn yêu nước của dân tộc Việt Nam, ý thức về cội nguồn dân tộc, đất nước để từ đó hình thành tinh thần tự cường dân tộc và ý thức độc lập tự chủ. Về phương diện xã hội, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương còn được thừa nhận là “hạt nhân tâm linh”, “chất keo văn hóa” có khả năng gắn kết cộng đồng, vun đắp truyền thống đoàn kết toàn dân tộc. Loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng như thế chính là “sợi chỉ đỏ” kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Hơn thế nữa, người Việt Nam luôn tâm niệm, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương như là “bệ đỡ tinh thần” cho thế hệ chúng ta hôm nay thực hiện di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[vi]. Có thể khẳng định, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của Việt Nam là một trong những hiện tượng văn hóa tâm linh đặc sắc và hiếm thấy ở các quốc gia khác.

Một nét nổi trội trong văn hóa Việt Nam là "tính mở trong văn hóa". Đó là khả năng tiếp biến văn hóa khá linh hoạt, thích nghi, thu nhận các yếu tố văn hóa ngoại lai theo hướng: (1) làm cho nó thích ứng và trở nên có ích cho người Việt Nam, (2) tìm thấy cái chung và tôn trọng, chấp nhận mà không loại trừ cái khác biệt, không giống mình. Nhờ thế mà trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, chúng ta đã thành công trong việc "giải Hoa hóa", bảo tồn được bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong diễn trình lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã tiếp thu nhiều dòng phái Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa... và tiếp theo là Việt Nam hóa và dân gian hóa,làm cho Phật giáo thấm đậm hồn Việt và có sự lan tỏa sâu rộng tới nhiều tầng lớp cư dân trong xã hội. Điển hình nhất phải kể tới trường hợp Chùa Dâu, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất ở Việt Nam và là nơi giao lưu giữa hai luồng văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ sang và từ Trung Hoa xuống. Chùa Dâu còn thờ Nữ thần Pháp Vân gắn với truyện cổ tích Tứ pháp của người Việt xưa. Vì lẽ đó, Chùa Dâu được coi là trung tâm trong hệ thống các chùa thờ Phật và thờ Tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) - một hình ảnh đẹp về sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian của người Việt.

Đạo Mẫu được coi là tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa đích thực. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Đạo Mẫu đã thu nhận nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai như Đạo giáo, Phật giáo và cả Nho giáo. Đạo Mẫu lấy việc tôn thờ Nữ thần, Mẫu thần và Thánh Mẫu Liễu Hạnh làm hạt nhân tâm linh, thậm chí là "tối linh", có khả năng bảo trì cho vũ trụ và bảo hộ cho con người. Mẫu là nơi con người ký thác những ước mong, khát vọng về đời sống nơi trần thế của mình và đạt được sự viên mãn, có sức khỏe và tài lộc muôn đời.

Theo chân những người Việt đi mở nước về phương Nam, Đạo Mẫu đã được hội nhập và tiếp thu các yếu tố văn hóa dân gian của các tộc người bản địa (Chăm pa và Khmer) ở miền Trung và Nam Bộ. Điện Hòn Chén ở Thành phố Huế là di tích tín ngưỡng độc đáo của người Chăm và nữ thần Thiên Y A Na (Bà mẹ Xứ sở) đã được người Việt dùng hợp hay bản địa hóa thành nơi thờ Thánh Mẫu và các vị thần của mình. Sau này, Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Vân Hương Thánh Mẫu) cũng được hội nhập thờ ở đây cùng Đức Phật, Quan Công và các vị thần thành khác.Tục thờ Nữ thần Ponagar trong quần thể di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Chăm Ponagar, Thành phố Nha Trang cũng được người Việt tiếp thu và Việt hóa thành tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na với lời cầu chúc cho con người và vạn vật nơi đây luôn sinh sôi nảy nở và phát triển để cuộc sống được no đủ và hạnh phúc tràn đầy. Ngày nay, tín ngưỡng thờ Bà mẹ Xứ sở Thiên Y A Na đã trở thành hiện tượng văn hóa đặc thù, có ảnh hưởng hết sức sâu rộng trong đời sống thường nhật của người dân Khánh Hòa. Tiêu biểu nhất phải đề cập tới hiện tượng văn hóa - lễ hội truyền thống Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, Châu Đốc tỉnh An Giang. Từ một bức tượng bằng đá sa thạch mà theo nhà khảo cổ học người Pháp Malleret nghiên cứu từ năm 1941 với hình tượng thần Vishnu (nam thần) - một hiện vật cổ còn lại của nền văn hóa Óc Eo xưa đã được người Việt thổi hồn bằng các truyền thuyết và huyền thoại ly kỳ và hấp dẫn để trở thành Nữ thần - Bà mẹ Xứ sở/Bà Chúa có khả năng phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, tránh được giặc cướp, thoát khỏi thiên tai, dịch bệnh. Điều đáng nói là hiện tượng tôn thờ thờ Bà Chúa Xứ núi Sam đã trở thành tín ngưỡng dân gian có sức cuốn hút cho cư dân thuộc các sắc tộc khác nhau (Chăm, Khmer, Hoa và Việt)  cùng chung sống ở An Giang cũng như ở các tỉnh/thành phố thuộc Nam Bộ.

Có thể khẳng định, tính thống nhất trong đa dạng văn hóa, bản sắc văn hóa và tính "mở trong văn hóa" cũng như khả năng thu nhận và thích nghi văn hóa của người Việt đã được phản ánh khá rõ nét trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể ở khắp mọi miền đất nước. 

Qua một số ví dụ điển hình nêu trên, chúng ta hiểu rõ mục tiêu và cách thức của UNESCO trong việc nhận diện đối tượng quản lý là di sản văn hóa phi vật thể nhằm hướng các quốc gia thành viên vào việc lựa chọn, ghi danh và tôn trọng các giá trị văn hóa phi vật thể với tư cách là các nhân tố phản ánh sự đa dạng văn hóa cũng như bản sắc văn hóa của từng dân tộc. Và qua đó khích lệ sự tôn trọng vai trò của cộng đồng chủ thể sáng tạo/những người nắm giữ, thực hành, truyền dạy, bảo tồn và chuyển giao di sản văn hóa phi vật thể cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

2. Chính sách xã hội và quy phạm pháp luật là loại công cụ đặc thù trong quản lý di sản văn hóa phi vật thể

Về phương diện xã hội, chính sách là tổng thể các biện pháp và thái độ ứng xử của chủ thể quản lý đối với các nhóm cộng đồng/giai tầng xã hội khác nhau để tạo ra động cơ hoạt động cho họ nhằm đạt được những mục tiêu chung của phát triển bền vững. Trường hợp của chúng ta là, vì mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nhằm phục vụ có hiệu quả việc phát triển bền vững (17 mục tiêu phát triển bền vững do Liên Hợp Quốc đề xuất), dựa căn bản vào 3 nguyên tắc: Nhân quyền - Bình đẳng - Tính bền vững. Có thể coi chính sách là công cụ mà chủ thể quyền lực sử dụng để tác động vào con người. Chính sách dẫn tới những kiến tạo xã hội về các quan niệm đạo đức khác nhau trong xã hội. “Chính sách là tập hợp các biện pháp được thể chế hóa mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”[vii].

Về mặt pháp lý, chính sách là tập hợp các biện pháp đã được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật để phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội, điều chỉnh động cơ hoạt động của các nhóm xã hội đó hướng theo các mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Và cũng có thể coi các văn bản quy phạm pháp luật là “vật mang” hay “vật chuyển tải” chính sách. Chúng có chức năng thể chế hóa và pháp điển hóa các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, cũng như chuyển tải các chính sách tới rộng khắp công chúng trong toàn xã hội.

Về bản chất, quản lý di sản văn hóa phi vật thể là việc sử dụng các công cụ quản lý (chính sách, quy định pháp luật) để quản lý các hoạt động của con người mà các hoạt động của họ có thể gây ra tác động theo cả hai chiều thuận nghịch tới di sản văn hóa phi vật thể. Trường hợp của chúng ta là, các Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú (chủ thể nắm giữ di sản) trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Như vậy, quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cũng tức là thiết lập mối quan hệ tương tác hai chiều giữa cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa và cộng đồng cư dân địa phương nơi có di sản nhằm tạo ra sự đồng thuận tương đối cả về cách nhận thức và thái độ ứng xử với di sản văn hóa phi vật thể do họ nắm giữ, bảo tồn, thực hành và truyền dạy.

Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi và bổ sung năm 2009 do Quốc Hội thông qua đã chính thức công bố các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể như sau:

- Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân loại di sản văn hóa phi vật thể;

- Tổ chức truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại hình di sản văn hóa phi vật thể;

- Khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể;

- Hướng dẫn nghiệp vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể theo đề nghị của tổ chức, cá nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể;

- Đầu tư kinh phí cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, ngăn ngừa nguy cơ làm mai một, thất truyền di sản văn hóa phi vật thể.[viii]

Ta thấy các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể phần lớn đều hướng tới hai đối tượng quản lý là di sản văn hóa phi vật thể và cộng đồng, nhóm người và các cá nhân nắm giữ di sản văn hóa. Điều này là hoàn toàn phù hợp với nội dung các khuyến nghị của UNESCO: “Trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mỗi quốc gia thành viên nỗ lực đảm bảo khả năng tham gia tối đa của các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân đã sáng tạo, duy trì và chuyển giao loại hình di sản này và tích cực gắn kết họ tham gia vào công tác quản lý.”[ix]

Như vậy là, UNESCO khuyến nghị các quốc gia thành viên cần thu hút tối đa sự tham gia của cộng đồng địa phương không chỉ vào các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể mà còn gắn kết họ tham gia vào công tác quản lý loại hình di sản quan trọng này. Tuy nhiên không thể nói tới một cộng đồng chung chung mà cần khẳng định vai trò quan trọng và chủ đạo của các cá nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể, trong đó nổi bật nhất là các “báu vật nhân văn sống” (theo quan niệm của UNESCO) và các Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể (theo quan niệm của Việt Nam).

Khuyến nghị nêu trên của UNESCO xuất phát từ những đặc điểm cơ bản của chính các loại hình di sản văn hóa phi vật thể và các cá nhân nắm giữ di sản. Di sản văn hóa phi vật thể là “vô hình”, tự nó không thể hiển hiện ra mà phần lớn phụ thuộc vào hành vi/hoạt động của các chủ thể sáng tạo. Trước hết, di sản văn hóa phi vật thể do con người/nghệ nhân sáng tạo ra và chỉ được nhận biết thông qua việc thực hành, trình diễn của con người trong các sự kiện cụ thể. Ngay trong một cá nhân/nghệ nhân thực hành hay trình diễn thì di sản được hiển hiện ra cũng không lặp lại và không rập khuôn mà phụ thuộc vào cảm xúc, sự hứng khởi của người thực hành/trình diễn ở từng thời điểm khác nhau. Điều đó dẫn tới một đặc điểm là, di sản văn hóa phi vật thể luôn được tái tạo và sáng tạo. Thứ nữa, di sản văn hóa phi vật thể không nằm ngoài con người mà được lưu giữ, thực hành trong cộng đồng, trong gia đình và trong từng cá nhân. Do đó, nó sẽ chỉ được trao truyền theo phương thức truyền dạy hay “cầm tay chỉ việc” và trao truyền “các ngón nghề” hay bí quyết nghề nghiệp theo kiểu cha truyền con nối, trong một cộng đồng xác thực. Mặt khác, hầu hết các nghệ nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể đều sinh ra, lớn lên và tiếp nhận di sản trong một vùng miền văn hóa, trong một cộng đồng xác định có truyền thống văn hóa, đặc biệt là trong các gia đình có truyền thống thực hành di sản văn hóa phi vật thể hiện nắm giữ những bí quyết nghề nghiệp, tri thức dân gian và kỹ năng độc đáo liên quan tới di sản. Do đó, họ được học hỏi, rèn luyện và truyền nghề qua nhiều đời tiếp nối: ông, cha, con, cháu.

Các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất trong một số tiêu chí xác nhận nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể là: Tài năng, kỹ năng, kỹ thuật trong thực hành di sản văn hóa phi vật thể mà nghệ nhân đang nắm giữ (1), các truyền thống văn hóa liên quan tới di sản văn hóa phi vật thể mà người đó đang nắm giữ (2), sự đóng góp của cá nhân đối với cộng đồng trong việc thực hành di sản văn hóa phi vật thể (3), khả năng truyền dạy, số lượng các học trò mà nghệ nhân đã trao truyền (4), và các nội dung khác.[x] Tôi cho rằng, cần đưa thêm một số tiêu chí nữa là uy tín về nghề nghiệp và đạo đức cũng như sự thừa nhận của cộng đồng đối với nghệ nhân.

Có thể khẳng định, chính sách ưu đãi đối với nghệ nhân năm giữ di sản văn hóa phi vật thể quy định trong Luật Di sản văn hóa chứng tỏ Việt Nam đã nghiêm túc thực hiện các khuyến nghị của UNESCO trong Công ước năm 2003. Điều 16, Luật Di sản văn hóa đã nói rõ:

1. Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân có tài năng xuất sắc, nắm giữa và có công bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thông qua các biện pháp sau đây:

- Tặng, truy tặng Huân chương, danh hiệu vinh dự Nhà nước và thực hiện các hình thức tôn vinh khác;

- Tạo điều kiện và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động sáng tạo, trình diễn, trưng bày, giới thiệu sản phẩm của nghệ nhân;

- Trợ cấp sinh hoạt hàng tháng và ưu đãi khác đối với nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn.[xi]

Trong quản lý nhà nước, người ta luôn xác định rõ các mục tiêu và các đối tượng sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi nhằm tạo ra động lực tích cực cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Nhà nước ta dành ưu tiên hàng đầu cho nhân tố con người - chủ thể sáng tạo, nắm giữ, thực hành và chuyển giao di sản. Do đó, UNESCO mới đưa ra định nghĩa về “báu vật nhân văn sống” là những người đang thực hành một loại hình di sản văn hóa phi vật thể nắm giữ ở mức độ cao về kiến thức kĩ năng nhưng một số trường hợp là “ngón nghề”, “bí kíp nghề nghiệp”, đồng thời có khả năng tái tạo một số yếu tố cụ thể của di sản văn hóa phi vật thể. Với chủ trương tôn trọng sự đa dạng về loại hình, về chính sách ưu đãi, UNESCO khuyến khích quốc gia thành viên tự lựa chọn danh hiệu phù hợp cho các đối tượng cần được ưu tiên. Việt Nam đã chính thức chọn hai danh hiệu cấp Nhà nước về các cá nhân có tài năng trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể là: Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú. Theo thống kê của Cục Di sản văn hóa, trong hai đợt xét tặng năm 2015 và 2018, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký quyết định vinh danh 66 cá nhân là Nghệ nhân nhân dân và 1121 cá nhân là Nghệ nhân ưu tú. Đây là nguồn động viên, khích lệ to lớn đối với đông đảo công chúng trong toàn xã hội.

Theo PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, nhiều nước trên thế giới đã thiết lập 4 biện pháp thiết thực để khuyến khích, hỗ trợ và đãi ngộ những cá nhân tài năng trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể như: cấp các chứng nhận danh hiệu cao quý cấp quốc gia cho các nghệ nhân; đãi ngộ về mặt vật chất dưới hình thức hỗ trợ các cho các nghệ nhân; thực hiện các chương trình đào tạo giúp các nghệ nhân có cơ hội cho truyền kỹ năng, kinh nghiệm thực hành cho lớp trẻ và khích lệ những người có tâm huyết tham gia các các khóa đào tạo đó để có thể kế thừa tri thức dân gian về di sản văn hóa phi vật thể từ các nghệ nhân lớn tuổi; có chính sách bảo vệ quyền tác giả và tạo dựng thương hiệu cho các nghệ nhân.[xii]

Tuy nhiên, vận dụng các bài học kinh nghiệm quốc tế ở Việt Nam ta thấy vẫn còn tồn tại một vài khác biệt so với xu hướng chung của UNESCO. Thứ nhất, hiện vẫn đang song song tồn tại hai Nghị định liên quan đến việc xét tặng danh hiệu nghệ nhân là: Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân” và “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể và Nghị định số 123/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân” và “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ. Chúng ta biết, thủ công mỹ nghệ về bản chất là nghề thủ công truyền thống có sản phẩm mang giá trị hàng hóa trong thị trường và nó cũng thuộc lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Vậy thì tại sao không thể lồng ghép vào một Nghị định để Chủ tịch nước chỉ ký một danh hiệu cao quý cấp quốc gia chung cho tất cả các loại hình di sản văn hóa phi vật thể. Thứ hai, việc vinh danh bao giờ cũng cần phải đi đôi với chế độ đãi ngộ tương xứng mới có khả năng tạo ra động lực, sự khích lệ các hành động tích cực của các chủ thể sáng tạo văn hóa. Hiện tại, các nghệ nhân đang được hưởng chế độ đãi ngộ theo tinh thần của Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2015 về việc hỗ trợ đối với Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp và hoàn cảnh khó khăn với ba khoản: trợ cấp sinh hoạt hàng tháng, bảo hiểm y tế, hỗ trợ mai táng. Phải coi đây là bước tiến bộ đáng kể thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với các nghệ nhân. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ như vậy là chỉ đủ để duy trì sự tồn tại về phương diện an sinh xã hội. Còn thiếu vắng cơ chế hỗ trợ cho nghệ nhân thực hành, sáng tạo và truyền dạy, đặc biệt là hướng dẫn để nghệ nhân có thể phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể do mình đang nắm giữ và tốt nhất là có khả năng sống bằng nghề và tài năng của mình. Trong thực tế, mỗi tỉnh/thành phố tùy vào điều kiện kinh tế của mình mà có mức hỗ trợ cao, thấp khác nhau cho các nghệ nhân. Như vậy, vô hình chung sẽ tạo ra sự mất công bằng ở giữa các nghệ nhân trong cùng một lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy mức độ hỗ trợ tài chính là dựa trên cơ sở tài năng, cống hiến và đạo đức nghề nghiệp chứ không phải tiêu chí mức thu nhập và hoàn cảnh khó khăn.

Thành tố quan trọng liên quan tới đối tượng quản lý cũng cần được ưu tiên là bản thân các giá trị di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu đang tồn tại trong cộng đồng và được cộng đồng bảo vệ, thực hành và phát huy trong đời sống xã hội để trở thành một phần của đời sống tinh thần của các cộng đồng. Công ước 2003 của UNESCO đã đề xuất hai loại danh sách quan trọng là: Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Phải hiểu đây là danh hiệu thể hiện sự ghi nhận/thừa nhận của UNESCO đối với các loại hình di sản văn hóa phi vật thể đang tồn tại trong cộng đồng, trong không gian sinh thái - nhân văn, nơi cộng đồng cư trú lâu dài và sáng tạo ra di sản văn hóa. Do đó, họ có vai trò quyết định việc lựa chọn, thừa nhận là di sản văn hóa của họ, đồng thời quyết định hình thức bảo tồn, phát huy cũng như quyền tham gia quản lý các di sản văn hóa của mình.

Đây không phải là sự xếp hạng, phân loại cao thấp đối với các di sản văn hóa phi vật thể. Cũng theo đó, Danh mục quốc gia về di sản văn hóa phi vật thể được thiết lập qua hoạt động tổng kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể nhằm nắm chắc khối lượng di sản văn hóa/tài sản văn hóa hiện có của cộng đồng 54 dân tộc anh em, đồng thời xác định được sức sống và sự lan tỏa của di sản trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là cơ sở khoa học ban đầu cần thiết cho việc đưa ra các giải pháp quản lý di sản văn hóa phi vật thể cũng như phân bổ nguồn lực cho việc bảo vệ và phát huy trong tương lai. Với tinh thần đó, Danh mục quốc gia về di sản văn hóa phi vật thể phải phản ánh được hiện trạng di sản và bảo đảm tính bình đẳng, công khai và minh bạch đối với các loại hình di sản văn hóa phi vật thể ở các vùng miền văn hóa cũng như giữa các sắc tộc văn hóa trên cả nước. Theo số liệu thống kê của Cục Di sản văn hóa đến tháng 01 năm 2020, Việt Nam đã kiểm kê được gần 64.000 di sản văn hóa phi vật thể thuộc 63 tỉnh/thành phố trong đó có 340 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục quốc gia, 11 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và 01 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Chúng ta có quyền tự hào về sự phong phú và đa dạng trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể mà các thế hệ cha ông đã trao truyền lại cho hôm nay.

Ngoài ra, cần quan tâm tới không gian sinh thái - nhân văn, nơi di sản văn hóa phi vật thể được tạo ra và hiện trạng đang được thực hành trong đời sống xã hội. Trước hết đó là không gian sinh tồn của các cộng đồng tộc người mà quan trọng nhất là không gian làng bản, xóm thôn và gia đình dòng họ. Không gian sinh thái - nhân văn đặc thù này chứa đựng 3 thành tố quan trọng là: cảnh quan thiên nhiên/môi trường sinh thái, quỹ kiến trúc mà tiêu biểu là các di tích lịch sử - văn hóa của cộng đồng; phong tục tập quán, lối sống, nếp sống hay di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng. Thực tế cho thấy, hầu hết các di tích lịch sử - văn hóa tại làng quê đều liên quan tới các thiết chế tôn giáo - tín ngưỡng (nhà thờ họ, đình, đền, chùa, miếu…). Mặt khác, các thiết chế tôn giáo - tín ngưỡng bao giờ cũng là không gian văn hóa - tâm linh có tính thiêng, nơi các di sản văn hóa phi vật thể được thực hành, trình diễn và phát huy. Đó là thể hiện sự gắn bó, mối quan hệ tương hỗ giữa hai loại hình di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam. Do đó, chúng ta phải quan tâm tới việc bảo vệ môi trường thiên nhiên, đồng thời lồng ghép, tích hợp các Chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án án tu bổ, tôn tạo di tích với các dự án bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể.

Phải thừa nhận, không gian văn hóa của các di tích lịch sử - văn hóa, các thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng cũng như không gian sinh thái – nhân văn tại các làng quê là tiền đề cho sự tồn tại và thực hành di sản văn hóa phi vật thể và ngược lại việc thực hành các nghi thức, nghi lễ thiêng liêng cũng góp phần làm gia tăng giá trị và sức hấp dẫn của các di tích lịch sử - văn hóa cũng như di sản văn hóa làng. Vì vậy, di sản văn hóa phi vật thể phải luôn gắn với văn hóa làng cũng như cảnh quan sinh thái - nhân văn của làng quê.

Một đặc trưng nữa cần được ghi nhận là, di sản văn hóa phi vật thể không bao giờ “nhất thành bất biến”, nó nhất thiết phải hàm chứa những nhân tố mang tính lịch sử, đồng thời lại phải mang hơi thở của thời đại mà chủ thể văn hóa cũng như chủ sở hữu di sản văn hóa phi vật thể đang sống, làm việc và sáng tạo. Điều đó còn có nghĩa là,việc di sản văn hóa phi vật thể được sáng tạo ra, được bảo lưu và chuyển giao qua nhiều thế hệ con người là cả một quá trình sàng lọc và sáng tạo không ngừng nghỉ. Các thế hệ kế tiếp nhau có quyền bình đẳng trong việc thừa hưởng các giá trị di sản văn hóa do cha ông để lại, đồng thời có trách nhiệm chọn lựa những gì là tinh hoa nhất để bảo lưu và chuyển giao trên cơ sở kế thừa có chọn lọc như thế còn phải luôn sáng tạo những giá trị văn hóa mới, bổ sung làm cho kho tàng di sản văn hóa của quốc gia cũng như nhân loại ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Đó là con đường duy nhất đúng, là quy luật sáng tạo và phát triển của các giá trị văn hóa phi vật thể. Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu mà chúng ta có trong tay như : Nhã nhạc cung đình Huế, nghệ thuật ca trù Việt Nam, không gian văn hóa Dân ca quan họ Bắc Ninh, không gian văn hóa Sử thi Tây Nguyên, nghệ thuật Chèo, Tuồng và Cải lương Nam Bộ…chắc chắn cũng hàm chứa những dấu ấn sáng tạo qua nhiều giai đoạn lịch sử chứ không thể là cái gì đó còn nguyên xi như lúc ban đầu khi chúng mới được sáng tạo ra. Trong quá trình phát triển, sáng tạo hay còn gọi là “cải biên” các loại hình nghệ thuật truyền thống như thế, có cái chúng ta đã làm đúng, cũng có cái sai nhiều hoặc sai ít, nhưng nhất quyết là phải sáng tạo và thích nghi cho phù hợp với nhu cầu xã hội hiện đại thì mới được chấp nhận và có thể tiếp tục tồn tại, phát triển trong tương lai.Còn ngược lại hoặc bảo thủ, cứng nhắc thì tất yếu sẽ bị đào thải, loại trừ, thậm trí tàn lụi. Di sản văn hóa phi vật thể là như thế, nó không chấp nhận sự đông cứng và bất biến.

Điều 1, Luật Di sản văn hóa định nghĩa rất rõ "di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam". Vậy có thể hiểu, đối tượng cần được quan tâm bảo vệ và phát huy là các giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học ẩn chứa trong di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ "vật biểu hiện/vỏ vật chất” và giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học/”cái được biểu hiện". Đó là phần "ẩn" và phần "hiện" trong di sản văn hóa được dung hợp lại làm nên giá trị của di sản. Tuy nhiên, phần "ẩn" tức là yếu tố phi vật thể mới là phần "hồn cốt", yếu tố quyết định sự tồn tại của di sản, là cái buộc chúng ta phải nỗ lực để bảo vệ và phát huy. Mặt khác, giá trị di sản văn hóa phi vật thể không có khả năng tự biểu hiện mà cần được phản ánh qua vỏ vật chất của di tích, di vật, hiện vật và sự thực hành của các cá nhân và cộng đồng. Do đó, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phải nương tựa, quyện chặt vào nhau và cùng song song tồn tại.

Vậy chúng ta cần đặc biệt quan tâm tới ba thành tố quan trọng nhất trong bảng giá trị văn hóa Việt Nam mà các nhà khoa học tương đối đồng thuận là: (1) ý thức liên kết cộng đồng bền chặt qua hàng ngàn năm lịch sử, (2) chủ nghĩa yêu nước truyền thống và sự phản ứng quyết liệt với những hành vi đi ngược lại lợi ích của quốc gia dân tộc, (3) chủ nghĩa nhân văn và lòng nhân ái của người Việt Nam. Ba mặt giá trị đặc trưng đó được ẩn chứa và phản ánh qua hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa và hệ thống di sản văn hóa phi vật thể trên lãnh thổ Việt Nam.Nhiệm vụ đặt ra cho thế hệ chúng ta là nhận diện, khám phá và có giải pháp phù hợp bảo vệ và phát huy các giá trị quý báu đó.

Lời kết

Ta biết, di sản văn hóa phi vật thể chứa đựng biểu tượng văn hóa, các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ. Đây là thành tố quan trọng tạo nên sự cuốn hút của di sản văn hóa ba phi vật thể. Tuy nhiên, di sản văn hóa phi vật thể chỉ trở nên hấp dẫn và có ích khi nó được hiển hiện ra thông qua các nghi thức, nghi lễ và các thực hành di sản do con người thực hiện. Vì thế, con người (cộng đồng, nhóm người, cá nhân) với tư cách là chủ thể văn hóa, duy trì thực hành di sản nên con người đóng vai trò chủ đạo trong cấu trúc di sản (nhiều trường hợp bản thân họ đã là hiện thân của di sản). Mặt khác, con người chỉ có thể thực hành di sản trong một không gian sinh thái - nhân văn cụ thể (gia đình, làng xóm, vùng văn hóa, có khi là cả quốc gia), trong đó hạt nhân cơ bản là không gian văn hóa - tâm linh của các thiết chế tôn giáo - tín ngưỡng.

Từng thành tố di sản văn hóa phi vật thể thường có tính chất đơn giản nhưng một khi chúng đã tương tác với nhau sẽ tạo ra tính phức hợp trong toàn hệ thống. Ngoài ra, “hệ thống” di sản văn hóa phi vật thể còn thực sự tương tác với các cơ quan quản lý nhà nước (hoạch định chính sách, pháp điển hóa chính sách, thực thi luật pháp và kiểm soát hiệu lực thực tế của các chính sách và pháp luật) và cộng đồng xã hội (các chủ thể văn hóa - người thụ hưởng giá trị văn hóa và các nhà khoa học, các doanh nghiệp có hoạt động liên quan tới di sản văn hóa phi vật thể). Do đó, rất cần phải xây dựng được hệ thống cơ chế chính sách và văn bản pháp luật phù hợp để điều chỉnh một hệ phức hợp gồm nhiều phức hợp có liên quan mới có thể quản lý có hiệu quả cả hệ thống hay “mạng lưới” các di sản văn hóa phi vật thể ở tầm quốc gia và thế giới hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Đ.V.B

 

Tài liệu tham khảo

 

[i] Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO

[ii] Điều 4, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa

[iii] Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO

[iv] Nghị định số 98/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, Khoản 1, Điều 2.

[v] TS. Hoàng Xuân Lương, Tìm hiểu thêm về bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Dân tộc, Trang thông tin điện tử Ủy ban Dân tộc.

[vi] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2011, trang 614.

[vii] Vũ Cao Đàm (2011), Giáo trình Khoa học Chính sách, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học - Xã hội và Nhân văn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

[viii] Điều 17, Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi và bổ sung năm 2009

[ix] Điều 15, Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể

[x] Phạm Cao Quý, Luận án Tiến sĩ Quản lý Văn hóa, Hà Nội, 2019, tr. 47

[xi] Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa và đổi bổ sung năm 2009, Điều 16

[xii] PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, Chính sách bảo vệ “báu vật nhân văn sống” tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, NXB Thế giới, Hà Nội, 2019, Tập 9, tr. 275-277.