Hành trình người lính: Là Quân giải phóng vào trận (Phần ba)

 Dương Văn Thịnh

23/04/2023 09:49

Theo dõi trên

Về đến cứ E4 an toàn, chúng tôi được nghỉ 5 ngày để học chính trị, lịch sử trung đoàn, kĩ năng tác chiến , được ngồi học trên ghế bằng cây độc mộc, trên phủ lá ngụy trang mà vẫn nghe thấy tiếng súng, pháo, máy bay L19-OV10 trên đầu nghiêng ngả soi mói tìm mục tiêu, nếu chúng phát hiện là bắn pháo hiệu Tùng - Cảo là lập tức A37 lao đến trút bom nghe đâu có đơn vị để lộ đã bị dội bom thiệt hại nặng.

Được phổ biến trong đoàn 2010, một số người được phân về đơn vị chiến đấu khác của miền Đông Nam bộ- trên đường hành quân về đơn vị chiến đấu dọc đường đã gặp địch – lính ta mới mà chiến đấu nổ súng rất dũng cảm – có một số đã hy sinh tôi không nhớ rõ đơn vị nào.

Sau khi học kĩ năng chiến đấu ở hậu cứ E4 tôi được phân về C12-D3-E4 với hòm thư 780.050.4Q.3K.J12-Q4 miền đông Nam Bộ. Bắt đầu mất chức A Trưởng – xuống làm chiến sĩ.

b4abc4-1682217962.jpg

Tôi cùng Dương Xuân Điều". Điều đã bị thương ở Chi khu Ông Đồn tháng 3-1975.

 
 

Từ hậu cứ E4 vượt qua nương rẫy do bom pháo lửa đang cháy leo lét đông chân núi Ra Ray về thẳng C12 ra chiến đấu ở suối Cát (hình như là 3/2 hay mùng 2/3 năm 1975 tôi không nhớ rõ). Nghe nói lại buổi sáng trong ngày trận này có anh Độ ở huyện Phú Bình hy sinh và anh Nguyễn Chí Thanh ở Tân Long Thái Nguyên cũng hy sinh, lúc 7 – 8 giờ tối tôi vẫn nhớ khi chỉ huy dẫn tôi về hầm tiểu đội có anh Lê Hải Âu người Hải Hưng là A Trưởng kéo tôi xuống hầm chữ T giữa gốc bụi chuối của đồng bào Suốt Cát xuống hầm khom người chui vào tối quá nên tôi bèn lấy bật lửa Trung Quốc (trang bị khi đi B) vừa quẹt lửa thì bị A trưởng thò chân đạp ngã chúi luống hầm quát khẽ, địch ngay trước hầm mày quẹt lửa làm lộ nó bắt chết à. Đây là bài học đầu tiên về kĩ năng trong trận chiến đấu đầu tiên. Rồi được phân công gác ôm khẩu AK47 cùng một anh nữa mỗi người một cửa hầm qua chớp lóe sáng của pháo địch bắn từ múi đất Bà Rịa lên tôi phát hiện cách hầm phía trước khoảng 15-20m loáng nhoáng bóng mù sắt của lính ngụy lúc ẩn, lúc hiện. Sau những bụi chuối, đến khoảng 2 – 3 giờ sáng hôm sau thì được lệnh rút bí mật về hậu cứ phía tây bên kia núi Gia Ray. (Trong ca gác A trưởng khi phát hiện địch vào gần thấy anh ở cửa hầm bên nổ súng tôi cùng bắn mấy lần nhưng không được 2 viên một mà phải 5 – 6 viên đạn ra một lần mà chẳng biết có tiêu diệt được thằng địch nào không).

Về hậu cứ 2 ngày thì ngày thứ 3 lại hành quân vượt dốc núi Gia Ray từ Tây sang Đông di chuyển để đánh chi khu Ông Đồn – được nghe lại cách đây gần tuần các chiến sĩ đặc công đã đánh nhưng không thành công vẫn còn 5 anh đã hy sinh nằm ở hàng rào chưa lấy được về mai táng, hành quân vượt dốc núi Gia Ray từ tây sang đông di chuyển lúc chập tối đội hình cả 3 tiểu đoàn 1 – 2 – 3 của E4 và các đại đội trực thuộc như công binh, ĐKZ-12,7 từ nay tôi là xạ thủ B41 có 1 giá 3 quả và 1 quả đã lắp sẵn vào súng là 4.

Mò mẫm đi dưới ánh trăng lờ mờ vượt dốc đá khoảng 1 – 2 giờ sáng thì tới chiếm lĩnh trận địa do trú quân dưới vườn chuối của dân nên 2 người đào hầm còn 1 người đi chặt chuối về khắp mặt hầm chữ T. Hầm tôi có anh Âu và Dương Xuân Điều người cùng quê ở xã Xuân Phương (sau này hy sinh 29 tết 78 – 79 ở CPC) khi làm hầm, song Điều lên khỏi hầm ngồi thở thì tự nhiên bị một viên đạn bắn vu vơ trong chi khu Ông Đồn bắn ra xuyên đùi Điều. Điều tụt vội xuống hầm máu tuôn ướt quần và được anh Âu băng bó chuyển về phía sau. Lúc này đã hơn 4 giờ sáng mà thấy trong chi khu Ông Đồn có nhiều tiếng nổ cùng những đốm lửa bốc lên và nhiều tiếng nói của lính ngụy hỗn độn vang lên, giờ G nổ súng là 5 giờ sáng, mà 5 giờ kèm 10 thông tin mới được mở máy lên sóng, thấy liên lạc là Ma Đình Thảo (người phường Trung Thành – Thành phố Thái Nguyên sau này là chính trị viên phó đại đội đã hy sinh ở cămpuachia năm 83) xuống truyền lệnh phân công tôi cùng một tốp 5-6 người là trinh sát tiểu đoàn đi điều nghiên bám địch và yêu cầu tôi ở trần mặc quần không áo cùng khẩu B41 theo đội trinh sát vượt lộ trước mặt vòng qua cửa chi khu Ông Đồn bám rừng chuối được khoảng 200m thì phát hiện trên lộ bọn ngụy đang rút ngược ra hướng Tánh Linh – Bình Thuận, các anh phân công tôi cùng 2 anh trinh sát ở lại rồi mọi người chạy về báo tiểu đoàn lúc này đã hơn 5 giờ sáng nên nhìn rất rõ, ta ở rìa đường trong vườn chuối, cà phê, chôm chôm, đu đủ cách địch trên lộ chừng 150 – 200m. Chúng tôi cứ bám theo thì khoảng 15 phút sau lực lượng tiểu đoàn vận động lên kịp chúng tôi và đồng loạt nổ súng về hướng địch đang di chuyển bộ trên đường. Thấy ta nổ súng bọn chúng cũng tản ra dàn quân bên vệ đường bắn lại giữa lúc nổ súng 2 bên loạn xạ mà vẫn thấy xe máy chạy trên đường nhưng họ đều quay ngoặt lại chạy ra phía ngược lại. Nổ súng một lúc thì được lệnh rút, vì tôi đi cùng trinh sát nên rút sau cùng nên bị pháo, cối M79 của ngụy nã trùm lên rừng chuối, không thấy ai bị thương hay hy sinh nhưng tôi bị mảnh M79 găn vào phần mềm gần gối và với giá đạn B41 còn 2 quả (tôi bắn có 1 quả) và 1 quả cùng khẩu súng nên tôi vừa lết vừa bò bám theo đơn vị rút, phía trước tôi phát hiện người rút sau đội hình có anh Quyết tôi gọi chờ tao với, Quyết ngoảnh lại nhưng vẫn chạy rút theo đơn vị mà không giúp tôi (Quyết mấy trận sau đánh ở rừng lá căn cứ 3-4 cũng bị thương và sau giải phóng ra bắc trước). Năm 80 sau khi bị thương lần 2 ở Căm Pu chia tôi về an dưỡng ở Đoàn 159 thuộc quân khu I có gặp Quyết trên đường đi buôn cá con ở Cù Vân – Đại Từ - Thái Nguyên. Và giờ nhà ở gần trường đại học Sư phạm Thái Nguyên. Khi có dịp gặp mặt hội bạn chiến đấu E4 Đồng Nai Đông Nam Bộ ở Thái Nguyên tôi nói vui với Quyết phải bây giờ thì năm 75 tao cho mày phát súng vì bỏ tao. Quyết cười rằng tao chạy trước có biết mày bị thương đâu, chỉ thấy mày vừa đi vừa bò tưởng mày nằm tránh pháo (thế là cười xòa). Mặc dù bị thương vết thương chột cùng mảnh đạn ở trong gần gối tôi vẫn phải vừa bò vừa lết cùng đồng đội và khẩu B41 cùng 3 viên đạn đồng thời thấy người sừn sừn sốt, hổn hển bò vượt dốc đá qua đỉnh núi rồi sang phía Tây núi Gia Ray cũng kịp lần mò về tới đơn vị, chỉ huy đại đội là anh Chuẩn C trưởng (sau này là đại tá ở cục quân lực bộ quốc phòng ở Hà Nội). Anh Bùi là chính trị viên phó, anh Quách Văn Chỉ là trung đội trưởng người Hà Tây, anh Trần Xuân Ngữ (Ngữ Sình) là B phó người Hà Tây này là Hà Nội. Sau khi cho y tá kiểm tra, băng vết thương, cặp nhiệt độ và bảo tôi vừa bị thương vừa bị sốt rét nên cho cáng lên trạm phẫu K23 và được chuyển lên viện tiền phương của miền (mà tôi không nhớ là 7A hay 7B, 7C) nhưng viện đóng quân ở rìa dọc sông la Ngà vào viện tôi được gặp lại Dương Văn Lợi là người cùng làng cùng đi bộ đội nhưng Lợi về E33 chiến đấu và bị thương ở chân trước tôi mấy ngày. Khi vết thương tạm ổn tôi cùng Lợi mò xuống rìa sông La Ngà chơi, là vì mùa khô nên cạn nước trong veo để lộ những vùng cát, đá trắng lẫn cỏ cây mới lên ở 2 bên bờ sông, chúng tôi thật bất ngờ vì từ Bắc vào đây là vùng sâu của Đông Nam bộ, giáp gần Xuân Lộc là căn cứ lớn của địch mà đã phát hiện ra xe tăng T34, T54 của ta đã được dấu kín dưới hầm rừng phủ lá kín chỉ lộ nòng pháo lên, còn hai bên bờ sông La Ngà mà nhất là phía bên phải theo hướng ngược dòng thì cơ man là các loại súng, cối, B40, 41, các thùng đạn, các thùng liều phóng của B40, 41 được dấu ngụy trang ở rìa sông có chỗ gần ngay mép nước, thấy tình hình vũ khí như thế này chắc là mình sắp đánh lớn rồi đây, tôi tự nghĩ vậy.

Sau thời gian điều trị, mảnh đạn đã được lấy ra, da được lên non và cũng cắt cơn sốt rét.

Tôi chia tay với đồng đội Lợi chia tay bệnh viện cùng về có anh Bản và một số anh em thương binh của E4 tìm đường bám về đơn vị, trên đường về đi ban đêm, trăng mờ (xin nói thêm trong thời gian tôi điều trị vết thương ở viện sông La Ngà có nghe phổ biến ở nhà trung đoàn 4 và 33 đã tổ chức nhiều đợt tấn công đánh ra căn cứ 3, căn cứ 4 – rừng lá ở ngoài Bình Thuận E33 có nhiều người hy sinh trong đó có Dương Văn Hải là người cùng xã và cùng đi bộ đội với tôi, còn E4 của tôi còn bị lính ngụy rút chạy ở phía ngoài Nha Trang – Phan Rang về Sài Gòn đã tràn qua hầm của anh em mình gác mà nổ súng không đủ sức cản lại bị thương và hy sinh một số. Trận này có anh Tiến bị thương giờ là thương binh sọ não nhà ở đối diện cứu hỏa thành phố Thái Nguyên.

Trên đường tìm về đơn vị chiến đấu , cứ thấy địch lại đi vòng tránh ra xa, thế mà khi đi qua chỗ ngã ba Ông Đồn vẫn thấy mùi lửa mùi khét cháy của cao su cách đây trên dưới 20 ngày mà tôi đã tham gia kể trên. Với hành trình 2 đêm 2 ngày đoàn thương binh E4 chúng tôi lần mò tìm về đơn vị, suốt dọc đường anh Bản là người lớn tuổi hơn cả mà như anh ấy nói là y tá cũng bị thương hình như người Nam Hà (nhưng sau này được nghe anh Ngọc khi ấy là liên lạc cho anh anh năm Chiến là chính trị viên d3 thì anh Bản là liên lạc cho anh tư Bình d trưởng d3, hiện anh Ngọc đã nghỉ hưu nhưng vẫn làm thêm đang là hiệu trưởng một trường đào tạo ở thành phố Hồ Chí Minh) anh Bản cứ năn nỉ tôi đổi cho anh ấy cái màn tuyn mà từ khi đi B tôi được trang bị để anh ấy khâu làm màn chùm võng cho đỡ muỗi. Ngược lại anh ấy đổi cho tôi được một cái võng dù đơn đã cũ bị đạn xuyên thủng nhiều chỗ cộng với chiếc màn tuyn chữ A đơn. Suốt 1 ngày 2 đêm tôi chưa chịu vì tôi còn kèo thêm anh ấy đòi phải thêm 1 túi có bột cầm máu và một túi có 2 thanh cầm máu nhỏ gần bằng 2 điếu thuốc lá (vì anh ấy nói là lính y tá 71 – 72 gì đấy) nên tôi cố kèo thêm 2 túi cầm máu.

Qua 2 ngày 2 đêm sang ngày thứ 3 vượt núi con rắn ở gần Xuân Lộc thì tôi mới đông ý đổi màn tuyn lấy võng, màn đơn và túi cầm máu, anh Bản hứa là về đến hậu cứ tiểu đoàn là có đủ cho tôi. Thế nhưng chập tối về đến cứ D bộ thì anh ấy chỉ có võng và màn đơn và 1 gói bột cầm máu còn thiếu gói thanh cầm máu hẹn đánh nhau, song trận ở ngã 3 dầu giây sẽ gửi trả tôi. Thế là anh Bản, Anh Sắn và một số anh em ở lại cứ của D theo phân công đóng quân ở rìa suối có đào hầm trú ẩn còn tôi theo anh em nuôi quân mang cơm nước và đội vận tải ra tiền phương (ngã 3 dầu giây) để tải cáng thương binh – tử sỹ về).

(Còn tiếp)

D.V.T

Trái tim người lính

Bạn đang đọc bài viết "Hành trình người lính: Là Quân giải phóng vào trận (Phần ba)" tại chuyên mục Văn hóa - Xã hội. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn