Nhật ký “Lính chiến” của CCB Phạm Hữu Thậm (Kỳ 10): Suýt nữa tôi bị quân Mỹ bắt sống trên đồng Thạc Phước

Đặng Vương Hưng (Biên soạn và giới thiệu)

28/12/2022 19:32

Theo dõi trên

16 giờ chiều 17/4/1970, tôi cùng Tiểu đội trưởng Quang và Dậu đi lấy lương thực. Qua Tây Gia đến Ô Gia thì phải tụt dép xách tay, dân sợ dấu dép lốp Cộng sản in trên đường, trong vườn, ngoài ngõ. Khi quân Mỹ - Nguỵ tràn vào phát hiện thấy dấu vết sẽ đánh đập tra khảo họ.

Xuống Quảng Đợi lấy được gùi ngô thì trời gần sáng, chúng tôi đi cố về Ô Gia Lam nghỉ, giấu gùi ở bờ tre bãi bói, mỗi người sơ tán rúc vào một nơi. Tôi chui vào bụi tre giáp bờ ruộng.

Nửa buổi, lúc 8 giờ, 2 máy bay trực thăng CH47 chở một Trung đội quân Mỹ đổ xuống phía đông Thôn 2 Ô Gia. Chúng lùng sục chán rồi kêu nhau đến vạt vườn gần bụi tre tôi trú.

d1qas1-1672230485.jpg

Ảnh do tác giả sưu tầm chỉ mang tính minh hoạ.

Không còn đường chạy, tôi vội vơ cỏ, lá khô đắp lên người, tay cầm lựu đạn sẵn sàng chiến đấu. Quân Mỹ ăn trưa, đồ hộp quăng ra, mùi thuốc lá ruby thơm ngọt làm sao, tôi ghé mắt nhìn mà thèm dểu nước dãi. Nó nhai, mình nuốt, vừa đói, vừa khát, thèm thuốc, kiến cắn, sâu bò, rệp đốt, trời nóng mồ hôi quá ngứa ngáy, khó chịu mà phải nằm im đó.

12 giờ, ngày 17/4/1970, quân Mỹ ăn xong rồi rút ra ngoài đồng. Hú vía, chúng tôi không ai dám thập thò. Tôi nằm ngửa nhìn lên cành tre có vật gì nâu nâu như cái áo rách vắt trên đó? Về sau lại thấy nó rung rinh động đậy. Tôi leo lên xem thử, thì là một tổ ong mật to bằng bình tông. Tôi hạ xuống, lấy con dao cắt từng miếng đưa vào miệng. Như thuốc hồi sinh, mát từ đầu lưỡi đến dạ dày, người tỉnh táo, mắt sáng hẳn lên.

15 giờ, trực thăng xuống bốc quân, chúng tôi ra hố bom tắm rồi đi lượm hộp, vào dân nấu nhờ cơm.

18 giờ cùng ngày, chúng tôi lên danh, qua gò Cây Cau đến ngã tư Quận thì chia tay nhau Dậu và Quang đi về danh Khe Dúc.

Một mình tôi qua gò Phú Phong, đi đến giữa cánh đồng Thạc Phước, một chiếc trực thăng HU1A từ danh An Bằng bay lại dùng đèn pha chiếu sáng quét theo đường trục. Tôi chạy không kịp, nằm ngửa tênh hênh. Nó soi đèn lướt qua trên bụng, nó vòng lại, tôi bỏ gùi chạy được 30 bước, rúc vào bụi cây lúp xúp, kéo cỏ khô đắp lên người.

Máy bay vòng lại, phóng 2 quả rốc két uy hiếp, bắn xả đại liên xuống lối đi và chung quanh bán kính 50m, cánh quạt gió làm dạt cỏ cây, gió xoáy tưởng bốc cả người; máy bay là là trên mặt đất rồi đỗ tại chỗ. Ối! giá có khẩu AK nhỉ? tôi cầm lựu đạn chờ.

Đèn pha quét chung quanh, 2 tên Mỹ nhảy ra, tay cầm tiểu liên lùng sục. “Vixi, Vixi”, chúng nhặt được gùi ngô, kêu lên nhí nhố. Một tên bắn tiểu liên quét ra xung quanh. Hai tên sục một lúc không thấy gì, một tên quăng gùi ngô lên máy bay rồi leo cả lên trực thăng.

Rồi chiếc trực thăng đó bốc đuôi lên, chuẩn bị cất cánh. Lúc ấy, tôi nằm trong bụi cây ngứa ngáy chân thay quá. Không hiểu linh tính thế nào, tự dưng tôi bật dậy nhảy tới gần, liệng luôn trái lựu đạn vào máy bay. Một tiếng “oành”, máy bay khựng lại và rú lên rơi tại chỗ. Lúc đó là 2 giờ đêm rạng sáng 19/4/1970.

Tôi chạy một mạch qua gò Thạc Phước, đến bụi tre cuối làng. Ở đó có 2 vợ chồng anh du kích. Tôi ngồi ở miệng hầm nói vào:

- Cho ghé nhờ một chút!

Người du kích hỏi:

- Ở đâu tới vậy? Không thấy trực thăng Mỹ sao mà chạy lung tung nguy hiểm quá?

Tôi gật đầu:

- Thì tôi vừa từ chỗ ấy về đó!

Tôi ngồi dựa hầm vấn thuốc hút. Người du kích đưa cho tôi khúc sắn:

- Đói không? Ăn đỡ đi.

- Cảm ơn nha!

Tôi chưa ăn hết mẩu sắn, mắt đã díp lại và buồn ngủ quá. Khi thức dậy mặt trời đã lên cao. 8 giờ sáng, một mình lững thững đi về đơn vị kể cho mọi người nghe. Trương đấm vào lưng tôi:

- Thằng này liều mà giỏi thật!

Ngày 22/4/1970, chúng tôi xuống mãi Thôn 10 của Đại Cường lấy gạo. Trời tối, đường xa, tôi đóng 2 cúc quần ở cổ chân cho gọn, cứ theo vết bánh xe tăng mà lội suốt một đêm. Cát sục vào trong quần đóng chặt cúc, nên cọ vào mắt cá chân, trật da đỏ loét, chảy nước vàng nhiễm trùng sâu quảng.

*

Từ 25/4/1970, chúng tôi rút về nghỉ ngơi mấy ngày rồi sửa chữa hầm hào, nhà ở, cải thiện kiếm ăn.

Chân tôi bị nhiễm trùng đến nay đau quá, nhưng vẫn phải chống gậy vào rừng nhặt hạt gắm và hạt trám. Luộc trám tách cùi kho ăn, còn hạt đổ ra một đống. Lúc không đi làm, chúng tôi ngồi lại, mỗi người con dao găm chặt đôi hạt, lấy que nhọn nhể ăn. Ăn nhiều hạt trám, xì hơi hôi không ngửi nổi. Mít rừng quả bằng bát con, hạt to hơn nhân lạc, rang ăn vừa béo vừa bùi.

Ngày 28/4/1970, Trung đội trưởng Trương bắn được con hoẵng với 2 con cheo cheo.

Ngày 29/4/1970, tôi chống gậy cùng Sới, Cẩm, vượt 2 cái dốc rồi cứ ngược suối đi 2 tiếng đồng hồ đến Làng Mực. Trời mưa, chúng tôi tìm thấy rẫy sắn, ở trong rừng nhìn ra lúc sau thấy một người khoác áo mưa, tay cầm CKC lượn một vòng rồi đi vào. Tôi bảo, họ kiểm tra rồi, vào đi. Chúng tôi nhổ một lúc, mỗi người một gùi đầy. Dù ốm yếu, bệnh tật vẫn cứ cố để sống mà đánh giặc.

Lúc về lội dọc suối, tôi lên cơn sốt, vừa đi vừa vục nước suối uống, gần tối mới đến gần hậu cứ. Cẩm về trước, tôi nhọc quá nằm ở bờ suối, không đi nổi nữa. Mãi tới lúc nhập nhoạng, mới thấy Thành Trung đội phó ra đeo gùi giúp tôi. Lúc này, gạo không có, bệnh tật, ốm đau thì nhiều. Anh Thuấn đi lấy rong suối về cho Đại đội, chỉ được một nắm về nấu ăn không đủ, Đại đội phó Quần mắng cho đến khổ.

Ngày 01/5/1970, tôi với Gia y tá đi Làng Mực mua sắn. Trời mưa, tôi mệt mỏi đi sau, vừa đi vừa kiếm ăn dọc đường, qua một con suối sang bờ tôi thấy thứ quả giống như nhãn vàng, như dâu da. Tôi nhặt lên, thấy sóc và nhím ăn nhằn, nếu quả gì chín thú ăn được thì người ăn được. Tôi nhặt ăn thử ngọt ngon không kém gì nhãn; tôi nhặt đầy 2 túi quần và túi đựng cơm đeo ở thắt lưng, vừa đi vừa ăn.

Đến bản, trẻ em thấy tôi ăn quả đó chúng xúm lại xin. Tôi hỏi lũ nhỏ:

- Quả chi vậy tụi bay?

Chúng nhao nhao trả lời:

- Trái Bòng Bong, ăn được, ngon mà.

Gia vội chạy lại bảo:

- Mày đưa tao ăn với!

Sau đó, chúng tôi theo đồng bào đi rẫy, được 2 gùi. Quyết định vào dân ngủ nhờ xin sắn nấu ăn. Gia bàn:

- Đồng bào ở đây tốt lắm. Nên ở ngày nữa để xin rau ăn.

Hôm sau chúng tôi ra rẫy xin rau lang, nhổ cây mặt trời, mùi tây, xin chuối luộc ăn.

Khi về đến bãi bòng bong, Gia trèo cây lấy đầy 2 bao tượng rồi ngồi ăn cho thích. Từ đó chúng tôi biết ăn bòng bong. Sau đó, tôi dẫn anh Cò, anh Thịnh đến cây bòng bong lấy quả cho biết chỗ.

Ngày 04/5/1970, ăn tối xong tôi mang môn hương đi rửa để luộc ăn. Về hầm, tôi kêu anh Thịnh đem đùm ngô lên dốc, 2 người bốc ăn no quá tưởng bội thực.

Ngày 10/5/1970, Đại hội chi bộ, các Đảng viên được ăn ngô rang. Từ 21/3/1970 tôi đã được kết nạp Đảng tại trận K700, nhưng không hiểu sao đến nay vẫn chưa được sinh hoạt Chi bộ? Nhưng tôi cũng không dám hỏi.

Sau này tôi mới biết: Chi bộ kết nạp Đảng cho tôi ngày đó là sai nguyên tắc, vì chỉ có một Đảng viên giới thiệu và đảm bảo, chưa được Đảng bộ cấp trên chuẩn y. Tại K700 trong lúc gay go, ác liệt, nhịn đói nhịn khát, địch vây hãm, đơn vị kết nạp Đảng cho tôi nhằm động viên tinh thần chiến sĩ, nhưng không nắm được nguyên tắc, quy định kết nạp Đảng.

Thời gian này, anh em trong đơn vị ốm đói càng nhiều nhưng vẫn phải đi trực chiến. Trung đội 2, cụm hỏa lực súng máy chúng tôi xuất phát lúc 8 giờ ngày 11/5/1970, vượt Dốc Mực đi về phía tây nam 2 tiếng đồng hồ thì đến Làng Dô. Chúng tôi bố trí trận địa đánh địch đổ bộ đường không. Sau 14 ngày, thì chúng tôi rút quân.

11 giờ trưa 25/5/1970, về đến hậu cứ, Trung đội kiểm tra trang bị; tôi bỏ quên con dao rựa, Trung đội trưởng bắt tôi quay lại tìm. Lúc này bụng đói, chân mỏi, cơm không được ăn, mang khẩu CKC, dọc đường hái quả mẫu đơn, sim mua, bô dô, tắc kè, nhện vằn, thằn lằn, chộp được là nướng ăn liền. Tìm được dao quay về nhà, thì trời cũng đã tối lâu.

Từ ngày 26/5/1970, tôi ốm nặng, y tá cho uống thuốc bọc đường, một tuần sau mới cắt sốt. Chân tôi lúc này đau quá, cái nhọt miệng to như miệng chén, mắt cá chân sưng húp, mỗi ngày đều rửa nước muối mà không khỏi.

Mãi đến ngày 30/5/1970, y tá Gia lên Trung đoàn kiếm được lọ kháng sinh pinicilin. Gần tối, tôi rửa nước muối cái nhọt, rồi y tá Gia tiêm trực tiếp vào mu bàn chân và nhỏ vào vết thương. Đêm hôm đó tôi mới thấy dễ chịu ngủ ngon. Sáng hôm sau thấy miệng vết thương nhợt teo dần, sau đó ăn da non và khỏi.

Ngày 31/5/1970, Đại đội tổ chức ăn dưỡng sức khỏe cho các xạ thủ súng máy 12 ly 7 và đại liên, thời gian 4 ngày, tiêu chuẩn mỗi người mỗi ngày 2 bò rưỡi gạo, không ăn ngô, sắn, mà có cá hộp và thịt hộp. Tối 4 người còn được một hộp sữa đàng hoàng.

Ngày 01/6/1970, một bộ phận đi đồng bằng lấy gạo, đến dốc Gió thì có lệnh gọi anh Thịnh anh Cò quay lại. 2 người đưa cơm vắt cho anh em đi tiếp để ăn. Tối về hậu cứ, đại phó Quần, đã cắt cơm anh Thịnh anh Cò.

Đã mấy hôm rồi, máy bay B52 rải bom xuống rừng; máy bay C130, L19 trinh sát chỉ điểm cho máy bay phản lực đánh phá theo trục đường từ bến Thạch Mỹ lên đến sông Ma Vương khói bom nghi ngút, tiếng nổ động rừng.

Người đi công tác miền tây phải dừng lại, ai cũng thấp thỏm lo âu. Ở bãi đá Bòng Bong phía đông sông Thạch Mỹ, mấy hôm nay có người miền Bắc, người miền Nam, chủ lực địa phương, Quân khu, Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ, đeo bồng, mang súng chỉ đợi cho yên máy bay là vượt sông…

(Còn nữa)

Đ.V.H

Trái tim người lính