Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 43)

Trân trọng giới thiệu sách “Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007)” của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh niên ấn hành.

Kỳ 43.

Tiểu thuyết “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách ra đời năm 1925 mở đầu cho nền tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ của Bắc Kỳ. Tiếp đó Nguyễn Trọng Thuật với bộ tiểu thuyết “Quả dưa đỏ”, Nguyễn Cảnh Chi với “Mộng trung du”, “Cô lâu mộng” của Võ Liêm Sơn. Văn xuôi vào những năm 30-40 thế kỷ XX tiến bộ vượt bậc. Tiêu biểu là nhóm “Tự lực văn đoàn” với những tiểu thuyết lãng mạn “Nửa chừng xuân”, “Đoạn tuyệt”, “Tối tăm” của Nhất Linh, “Gánh hàng hoa”, “Đời mưa gió”, “Gia đình” của Khái Hưng.  Bên cạnh dòng văn học lãng mạn, xuất hiện dòng văn xuôi hiện thực phê phán mà tiêu biểu là tiểu thuyết “Bước đường cùng”, ”Kép tư bền” của Nguyễn Công Hoan, “Tôi kéo xe” của Tam Lang, “Lều chõng”, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Xứng đôi vừa lứa” của Nam Cao, “Giông tố”, “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.

          Các dòng văn học dù là lãng mạn hay hiện thực phê phán đều phê phán sự thối nát bất công của chế độ thực dân phong kiến.

          Thơ ca đầu thế kỷ XX đã thoát khỏi khuôn khổ thơ chữ Hán với các thể loại thơ mới viết bằng chữ quốc ngữ. Nổi tiếng nhất đầu thế kỷ XX là thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) với “Khối tình con”, “Giấc mộng con” chứa chan tính thần lãng mạn, ưu tư với thời cuộc nước mất nhà tan. Thơ của Trần Tuấn Khải khảng khái rung động tâm hồn, thơ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh chứa chan tinh thần yêu nước, thương nòi. Nổi bật trong thời kỳ này là phong trào thơ mới, các thi sĩ của dòng thơ này đi tìm những âm điệu mới lạ, diễn đạt tình cảm muôn màu, muôn điệu. Nổi tiếng trong dòng thơ mới là các thi sĩ Thế Lữ, Chế Lan Viên, Cù Huy Cận, Phạm Huy Thông, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu là những  thi sĩ đã đem lại sinh khí huyền diệu cho thi ca, cho ngôn ngữ mới.

          Trào lưu văn học cách mạng cũng đang trên đường hình thành và phát triển với các tác giả Tố Hữu (Từ ấy), Hồ Chí Minh với tác phẩm kịch “ Con rồng tre”, “Nhật ký trong tù”.

          Các thể loại nghệ thuật mới kiểu Tây Âu cũng xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như thể loại kịch. Nguyễn Văn Vĩnh dịch hài kịch của Môlie, công diễn trên sân khấu vở “Bệnh tưởng”. Thái Phi viết vở “Học làm sang”, Vũ Đình Long viết “Chén thuốc độc”, “Toà án lương tâm”, Tác giả Vi Huyền Đắc với vở “Hai tối tân hôn”, “Cô đốc Minh”, Khái Hưng viết vở “Tục luỵ”, Đoàn Phú Tư với vở “Những bức thư tình” và “Ghen”. Ngoài ra còn các môn nghệ thuật mới mà các thế kỷ trước chưa có như nhiếp ảnh, điện ảnh, âm nhạc Tây Âu xâm nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên văn hóa cổ truyền dân tộc vẫn tồn tại và phát  triển. Tuồng với vở “Chúa Nguyễn phò Hoàng Lê” của tác giả Nguyễn Thúc Khiêm. Các làn điệu dân ca ba miền, ca tài tử Nam Bộ, ca trù, chèo vẫn chiếm ưu thế trong dòng văn hoá dân gian.

          Hình thành bộ môn phê bình văn học nghệ thuật. Thiếu Sơn viết “Phê bình và cảo luận”, Lê Thanh Mại viết “Trên dòng sông Vi”. Các cuốn từ điển phục vụ cho tra cứu dịch thuật lần đầu tiên ra đời. “Việt Nam từ điển” của nhà xuất bản Khai trí Tiến Đức, “Hán -Việt từ điển” của Đào Duy Anh.

          Một trong những xuất bản phẩm nổi bật của văn hoá Phương Tây mà Việt Nam tiếp thu là báo chí. Thực dân Pháp đã đưa báo chí vào Đông Dương để làm công cụ cho chính quyền thuộc địa. Đầu tiên xuất bản các tờ báo tiếng Pháp, tiếng Hán, sau đó báo bằng chữ quốc ngữ ra đời. Năm 1914  ở Nam Kỳ có 30 tờ báo, đến năm 1930 cả ba kỳ có 100 tờ báo; 1938 có 400 tờ. Thời kỳ này có các báo “Lục tỉnh tân văn”,  “ Đông Dương tạp chí”, “Nam phong tạp chí” của Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, “Hữu thanh”, “An Nam tạp chí”, “Phụ nữ tân văn”, “Tiếng dân”, “Thực nghiệp”. “Đông Pháp”. Các báo dù đứng trên lập trường nào cũng đã phản ánh đời sống chính trị xã hội đương thời. Báo chí đóng vai trò là phương tiện thông tin hiện đại cập nhật thông tin, nâng cao dân trí, góp phần truyền bá tư tưởng, lối sống mới, thúc đẩy nền văn hoá mới, góp phần hoàn thiện chữ quốc ngữ, là diễn đàn tranh luận của các nhà văn hoá, các nhà chính luận. Từ những năm 30 về sau, báo chí góp phần vào cuộc đấu tranh chính trị xã hội. Trong đó báo chí cách mạng ra đời mà người đặt nền tảng là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với tờ báo đầu tiên “Người cùng khổ” do Người sáng lập và xuất bản tại Pa ri. Báo chí góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh trong phong trào dân chủ 1936-1939, vào công cuộc chuẩn bị lực lượng và tổng khởi nghĩa trong cách mạng tháng Tám với các tờ “Ngọn cờ giải phóng”, “Cứu quốc”.

          Đầu thế kỷ XX nhiều học thuyết, chủ nghĩa mới được truyền bá vào Việt Nam. Các giai cấp mới, các tầng lớp mới đang ra sức tìm kiếm những tư tưởng mới cho mình. Tư tưởng dân chủ tư sản Phương Tây của Mông texkie, Vôn te, Ru xô vào Việt Nam qua các tác phẩm của những nhà duy tân Trung Quốc Khang Hữu Vi, Luơng Khải Siêu. Tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn cũng được truyền bá vào Việt Nam. Những năm 20 do sự hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của Người, chủ nghĩa Mác -Lê nin được truyền bá vào Việt Nam và vào phong trào công nhân, trở thành hệ tư tưởng của giai cấp này và là xu hướng phát triển quyết định của phong trào cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng khác nhau đi vào các giai cấp khác nhau không chỉ thể hiện ở cuộc đấu tranh chính trị mà còn thể hiện đấu tranh  quan điểm học thuật trên sách, báo. Sách “Nho giáo “ của Trần Trọng Kim, “Nhân đạo quyền hành” của Hồ Phi Thống, “Biện chứng phổ thông” của Phan Văn Hùm. Còn có các sách của “Nam phong tùng thư, ” “Quan hải tùng thư”. Dòng tư tưởng cách mạng được thể hiện qua các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như “Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp”, “Đường cách mệnh”.

          Sử học thời kỳ này nghèo nàn, chỉ có tác phẩm “Việt Nam sử lược” của Trần trọng Kim. Nguyễn Tử Siêu viết các tiểu thuyết lịch sử: “Hùng Vương”, “Vua Bố Cái”, “Đinh Bộ Lĩnh” và “Tiếng sấm đêm đông”. Nguyễn Ai Quốc là người đặt nền tảng cho nền sử học cách mạng với những tác phẩm của Người vào những năm 20-30.

          Các đô thị lớn thời kỳ đó như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn, Huế, Cần Thơ không chỉ là trung tâm chính trị mà còn là trung tâm kinh tế, văn hoá, là nơi ảnh hưởng văn hoá mới Phương Tây ở đời sống và kiến trúc. Thể hiện kiến trúc Phương Tây là Toà nhà Đại học Đông Dương, Viện Viễn Đông Bác cổ, trụ sở Bộ ngoại giao, Phủ Toàn quyền, Thư viện quốc gia Hà Nội, Toà đô chánh, Trụ sở Toà án (Sài Gòn). Cơ sở hạ tầng cả ba kỳ được nâng cấp, giao thông đường thuỷ, đường bộ, đường sắt được tiếp tục mở mang. Đường sắt xuyên Đông Dương hoàn thành năm 1936. Cầu Pôn đu me qua sông Hồng hoàn thành năm 1912. Triều đình Huế thời gian này xây dựng nhiều lăng tẩm có giá trị văn hoá như lăng Tự Đức, Lăng Khải Định là một công trình kiến trúc pha trộn nghẹ thuật Đông-Tây.

Phục vụ cho công cuộc cai trị, thực dân Pháp  thành lập nhiều cơ quan nghiên cứu: Viện Pa stơ, Viện quang học, Viện hải dương học, Sở khí tượng học, Sở địa dư, Viện Viễn Đông bác cổ, Hội khoa học tự nhiên.

b1adac-trund-van-hoc-trund-dai-1675585447.jpg

Tranh minh họa: Văn học dân gian là nguồn cảm hứng phát triển văn học trung đại Việt Nam. Nguồn: Internet.

 

 

          Trong đại gia đình tôn giáo Việt Nam từ lâu đã có tôn giáo dân gian, còn có đạo Phật, đạo Hồi, đạo Bà la môn, đạo Lão, đạo Nho. Thế kỷ XVI trở đi có thêm đạo Thiên chúa từ Phương Tây truyền vào. Thế kỷ XIX đạo Tin lành xâm nhập và năm 1919 được chính quyền Đông dương cho phép hoạt động. Năm 1927, Tổng hội thánh Tin lành Việt Nam được thành lập do Hoàng Trung Thừa làm Hội trưởng. Những năm 20 của thế kỷ XX đạo Tin lành được truyền bá lên Tây Nguyên. Lịch sử tôn giáp Việt Nam càng thêm đa dạng với việc du nhập của Thiên chúa giáo và đạo Tin lành.

           Ở Nam Bộ vào những năm 20 thế kỷ XX ra đời những tôn giáo địa phuơng. Thảng 10 năm 1926 ra đời đạo Cao Đài do các ông Phạm Công Tắc, Ngô Văn Chiêu, Lê Văn Trung, Nguyễn Văn Ca sáng lập. Cao đài là tôn giáo hợp nhất ba tôn giáo Nho, Phật, Đạo và 5 ngành đạo: nhân, thần, thánh, tiên, phật. Đạo Hoà hảo do ông Huỳnh Phú Sổ sáng lập năm 1939 ở làng Hoà Hảo, tỉnh An Giang theo giáo lý của đạo Phật nhưng đơn giản và nhấn mạnh nghĩa vụ của con người với gia đình, với đất nước. Đạo Hoà hảo chủ trương tu tại gia, không nhà thờ, không ảnh, không tượng, không giáo phẩm.

          Nhìn chung trong thời kỳ cận đại, văn hóa truyền thống Việt Nam bị văn hoá phương Tây tấn công. Để tự vệ, văn hoá Việt Nam tự loại bỏ những yếu tố lạc hậu, tiếp thu những nhân tố tích cực của văn hoá Phương Tây làm nhân tố của mình để tồn tại,  phát triển, để tìm con đường giải phóng dân tộc. Trong đó cơ bản là tìm ra tư tưởng tiên tiến nhất có khả năng hoàn thành sứ mệnh to lớn này. Từ những năm 20-30 của thế kỷ XX việc tìm kiếm tư tưởng đó đã hoàn thành: tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Dưới ánh sáng của tư tưởng này, cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi và hoàn thành công cuộc phục hưng dân tộc bằng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Văn hoá Việt Nam lại một lần nữa chứng minh sức sống bất diệt của mình.

(Còn nữa)

CVL