Văn học, nghệ thuật trong và ngoài nước đã có nhiều tác phẩm nói về văn hóa Châu thổ Sông Hồng, nhưng riêng cá nhân tôi nhận thấy: Chưa có tác phẩm nào đào sâu xây cao vạm vỡ bề thế dạt dào cuồn cuộn minh triết ân nghĩa như Trường ca PHỒN SINH của nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu (NXB Hội Nhà văn. H.2018). Đây là một bản trường ca mê sảng cảm hứng phồn thực và sinh sôi từ Đất và Nước. Sông Hồng đỏ nặng phù sa chính là cội nguồn của cội nguồn, tích chứa trong lòng những truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, tục ngữ, ca dao, dân ca, dân vũ; hòa trộn mọi cung bậc sắc thái tình cảm mộng mơ, dịu dàng, hung dữ, bình dị, bất thường, huyền bí, thiêng liêng, tâm thức, tâm cảm..... Tất cả như phù sa bồi đắp nên một châu thổ mỡ màng trù phú, tạo nên những mùa màng hoan lạc sinh sôi nảy nở diệu kì…
1. Nguyễn Linh Khiếu là một trong những gương mặt tiêu biểu của Thơ Đổi Mới những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, thuộc bộ tứ những cây bút trẻ ấn tượng: Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc và Nguyễn Linh Khiếu. Sau khi trở thành Phó Giáo sư-Tiến sĩ Triết học, Nguyễn Linh Khiếu xa lánh mọi ồn ào hô hào cao đàm khoát luận về nghệ thuật. Nhà thơ lặng lẽ đối thoại với thế giới theo cách riêng của thơ mình; một mình cô đơn ngẫm nghĩ về hạnh phúc, đau khổ, được mất… của mỗi cá thể nhân quần; về những tự do, nhân quyền, dân sinh, dân chủ, cầm quyền, bị trị, đảng phái, giai cấp, đấu tranh, giải phóng, cầm tù… của nhân loại. Và Trường ca PHỒN SINH chính là hình hài của “Cái Tôi” bản thể của nhà thơ khi đã tự khải huyền bản thân để soi ngắm thế giới từ chính bên trong con người mình.
Theo đó, trong trường ca PHỒN SINH, Nhà thơ - PGS, TS Triết học Nguyễn Linh Khiếu đã diễn giải các phạm trù Triết học, bao gồm cả những khái niệm khá gần gũi với con người như cái thiện, cái ác, đạo đức, phong tục, tâm lý, sinh lý, khoa học, văn chương, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, chính quyền, thần linh... thông qua một hệ thống biểu tượng vô cùng phong phú. Trong đó, có nhiều biểu tượng được lặp đi lặp lại khá dày đặc, tạo nên những hiệu quả nghệ thuật hết sức đặc biệt và độc đáo. Đồng thời, PHỒN SINH cũng là thi phẩm thêm một lần minh chứng sự trưởng thành của một cây bút tiên phong đổi mới thơ. Tác phẩm mang âm hưởng vị lai phi truyền thống. Mạch cảm hứng thăng hoa tuôn trào dòng chảy vô thức, bùng nổ ẩn ức, khai phóng sáng tạo. Một cái hay nữa là với tác phẩm này, tác giả không muốn (không cần) “cãi nhau” với ai đã đành, mà bạn đọc cũng không cần “cãi nhau” với ai, kể cả với tác giả và với chính mình. Bập vào văn bản PHỒN SINH, người đọc được tác giả trao quyền năng tối thượng; Có thể sẻ chia đồng cảm với tác giả hoặc có thể “sáng tạo” tác phẩm theo sở trường sở đoản sở kiến của mình; có thể đọc thứ tự lần lượt từng trang hoặc có thể đọc bất cứ đoạn nào trang nào cũng không ảnh hưởng gì đến quá trình tiếp nhận-cảm nhận. Thậm chí có thể hiểu hoặc không hiểu nhưng… vẫn hiểu (!)
Đã có hàng chục bài viết của các nhà nghiên cứu khả kính về PHỒN SINH đăng trên nhiều tờ báo/tạp chí văn chương uy tín. Đã có vài luận văn cao học đào xới PHỒN SINH ở một vài tầng vỉa trầm tích lộ thiên. Tôi thích nhất ý kiến của Nhà phê bình văn học Văn Giá: “Đọc PHỒN SINH cần rất nhiều sức khỏe”! Câu này, hiểu theo nghĩa đen thì đúng là đọc PHỒN SINH rất mệt, bởi với độ dày trên 700 trang sách với 150 Chương mà chỉ có một dấu chấm duy nhất kết thúc bản trường ca hơn 130 ngàn chữ, thì khỏe như voi cũng phải… hết hơi. Nhưng ý kiến thầy Văn Giá phải hiểu theo nghĩa bóng mới chuẩn chỉnh: Đọc PHỒN SINH phải có phông văn hóa rộng, kiến thức sâu, tư duy triế thọc và… cảm thụ văn học cùng nhiều kỹ năng khác nữa, nghĩa là… rất khỏe!
2. Đọc trường ca PHỒN SINH của Nguyễn Linh Khiếu, tôi chợt có những liên hệ thú vị với chuyện voi làm tình: Trước khi giao phối, con voi cái đứng yên, còn con voi đực thì quần thảo gào thét lồng lộn xung quanh, Cả một khoảnh rừng rộng bằng nửa cái sân bóng đá bị giày xéo tan nát, chi chít vết chân voi. Khoảng dăm chục năm trước, thời Hoành Sơn quê tôi chưa bị lâm tặc triệt hạ, thỉnh thoảng vào rừng tôi cũng gặp những “bãi chiến trường” như thế. Các bác Sơn Tràng nói rằng đêm qua có cặp voi giao phối ở đây…
Loài vật nào cũng có những vũ điệu hoặc âm điệu đặc trưng trước khi giao hoan truyền giống. Có điều với những con vật như gia cầm gia súc bình thường; hoặc với loài động vật cao cấp biết nói, biết mặc quần áo… thì “chuyện ấy” được coi là tục tĩu, tế nhị, nhạy cảm… và thường bị “làm ngơ” hoặc che đậy giấu giếm. Ngược lại với những động vật được tôn làm tô-tem tín ngưỡng, được coi như linh vật thờ cúng, thì “chuyện ấy” của chúng được coi như những nghi thức thiêng liêng, trở thành cảm hứng sáng tạo cao quý của các văn nghệ sĩ. Tôi tin chắc rằng nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu đã rất dụng công dùng nhịp điệu ngôn ngữ thơ ca để diễn tả cảm thức Phồn Sinh trong trường ca PHỒN SINH của ông. Thì đã bảo, đây là một bản trường ca mê sảng cảm hứng phồn thực và sinh sôi từ Đất và Nước. Sông Hồng đỏ nặng phù sa chính là cội nguồn của cội nguồn, tích chứa trong lòng những truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, tục ngữ, ca dao, dân ca, dân vũ; hòa trộn mọi cung bậc sắc thái tình cảm mộng mơ, dịu dàng, hung dữ, bình dị, bất thường, huyền bí, thiêng liêng, tâm thức, tâm cảm, nhục cảm... Tất cả như phù sa bồi đắp nên một châu thổ mỡ màng trù phú, tạo nên những mùa màng hoan lạc sinh sôi nảy nở diệu kì. Tác giả đã sử dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật để diễn tả những cảm hứng trên đây; trong đó những “đoạn thơ” dồn dập hối hả cuồn cuộn không chủ ngữ vị ngữ không dấu chấm dấu phẩy bất qui tắc chính tả ngữ pháp… đã diễn tả rất thành công ý niệm phồn thực sinh sôi của tác phẩm.
Xin hãy đọc một đoạn như thế để so sánh với cảnh con voi đực hứng tình hung hãn cuống quýt lồng lộn quần thảo cánh rừng trước khi thực hiện động tác truyền giống: “…trong phì nhiêu đất đai rộn ràng mùa màng chín mẩy trong tưng bừng hội hè đình đám hiến dâng cúng tế linh thiêng trong rang chiều nồng nã trong hoàng hôn rực đỏ trong nhập nhoạng óng ả trong sáng tối chập chờn những lợn gà tí tởn những ngan ngỗng lơn tơn những chim chóc chành chọe những chó mèo chí chóe những trâu bò phởn phơ những ngựa dê động cỡn những chồn cáo đú đởn những cua cáy lồm cồm những ếch nhái ộp oạp những sâu bọ đong đưa những cá tôm ngúng nguẩy những ốc hến bầy nhầy những chuột dơi chạng vạng những rắn rết loằng ngoằng những quạ cú rình rập những cào cào lanh chanh những châu chấu cành cạnh những chi chi chành chành những bướm ong bay lượn những chuồn chuồn ve vãn những trai gái căng phồng những trống mái sặc sỡ những đực cái hào hùng những âm dương nức nở những nắng mưa lung linh những đất trời khai mở…”.
3. Cùng với việc dụng công sử dụng nhịp điệu dồn dập cuống quýt liên hồi ma trận khiến người đọc cũng bị cuốn hút vào cơn lên đồng mê sảng hứng khởi hân hoan bạo liệt…, tác giả còn khá thành công khi sử dụng thủ pháp điệp từ điệp ngữ để hỗ trợ cho sự thăng hoa “lên đỉnh”. Thủ pháp này cũng rất đa dạng linh hoạt, khi thì “điệp” danh từ hoặc tính từ hoặc động từ… là những từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa; khi là “điệp” chủ ngữ hoặc vị ngữ hoặc bổ ngữ… là những cặp khái niệm hoặc phạm trù. Chẳng hạn đây là đoạn “điệp” danh từ: “… một vùng đất một vùng trời một vùng núi non một vùng không khí một vùng sông nước một vùng biển khơi một vùng bờ bãi một vùng đồng ruộng một vùng nắng một vùng gió một vùng mưa một vùng sấm chớp một vùng bão tố một vùng lũ lụt một vùng thảo mộc một vùng muông thú một vùng côn trùng một vùng chim chóc một vùng cá tôm một vùng cua cáy một vùng ốc hến một vùng cóc nhái một vùng người ngợm loi choi láo nháo…”. Và đây là danh từ THIÊN ĐƯỜNG được dùng làm sở hữu cho một loạt khái niệm / phạm trù triết học: “… đó là thiên đường của sắc màu thiên đường của âm thanh thiên đường của tiết tấu thiên đường của ngôn ngữ thiên đường của tự do thiên đường của dân chủ thiên đường của độc lập thiên đường của hòa bình thiên đường của hữu nghị thiên đường của bình đẳng thiên đường của ấm no thiên đường của hạnh phúc thiên đường của bình yên thiên đường của bác ái thiên đường của khoan dung thiên đường của tình yêu…”.
Thủ pháp điệp từ, điệp ngữ trên đây được sử dụng khá dày đặc, ngoài hiệu quả nghệ thuật như đã trình bày, còn là “thiện chí” của tác giả muốn bạn đọc nếu đồng cảm đồng tình thì xin mời đồng sáng tạo. Thật vậy, bạn đọc tùy vào năng khiếu, học vấn, sở đoản, sở trường mà có thể “nối” tiếp vào đó những danh từ, tính từ, động từ hoặc những phạm trù / khái niệm để làm giàu có nội dung, tăng sức thuyết phục, “củng cố” chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Tất nhiên sự “nối tiếp” đồng sáng tạo ấy phải tuân thủ đúng qui tắc ngữ pháp ngữ văn và “từ loại” của đoạn thơ / khổ thơ đó. Đây cũng là một khía cạnh “nảy nở, sinh sôi” trường tồn của trường ca Phồn Sinh.
Nhưng nếu hiểu rằng tất cả những thủ pháp về nhịp điệu và tu từ trên đây là nhằm phục vụ cho khát vọng phồn sinh theo nghĩa ấn ức nhục dục (libido) thì đấy chỉ mới là hiểu về cái “vỏ” của PHỒN SINH. Cao cả và sâu xa hơn khát vọng phồn thực và sinh sôi theo lẽ tự nhiên của đất trời là khát vọng Tự do-Dân chủ của con người và xã hội. Đó là ẩn ức khai phóng không chỉ của nhà thơ mà là của cộng đồng, dân tộc và nhân loại…
Cơ mà… luận về nội dung này, lại phải cần “rất nhiều sức khỏe” như PGS, TS Văn Giá đã nói khi bàn về tập trường ca này. Chỉ xin nói thêm rằng, đọc Trường ca PHỒN SINH, chắc chắn mỗi người cũng sẽ có một cách lý giải về nguồn gốc của đại dịch Covid-19 hiện nay. Con người sinh ra để tiêu diệt loài người. Con người tham lam vô độ đang tự ăn chính mình. Thế giới càng văn minh thì càng gần ngày tận thế. Sẽ còn rất nhiều loại Covid nguy hiểm hơn Covid-19 đang chờ đợi loài người hung hăng ngạo nghễ vô cảm mưu mô khoái lạc…