Văn học Việt Nam qua nhận định của chuyên gia văn học nước ngoài

Trong tham luận Hội nghị Quốc tế quảng bá văn học Việt Nam lần thứ IV và Liên hoan Thơ Quốc tế Lần thứ III (ngày 16 – 21 tháng 2 năm 2019) tại Việt Nam, các chuyên gia văn học nước ngoài đã có những nhận định về văn học Việt Nam.
van-hoc-viet-nam-1623945104.png
Các tác phẩm văn  học Việt Nam. Ảnh internet

Thơ ca đấu tranh giành độc lập dân tộc

Trong bài tham luận của mình, nhà thơ Fernando Rendón – Chủ tịch Liên hoan thơ Quốc tế Medellín (Colombia) – Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Á – Phi và Mỹ La Tinh, viết: “Từ cuộc chiến tranh tàn khốc, Việt Nam trở thành biểu tượng của cuộc kháng chiến và hòa bình... Đây là cuộc chiến tàn khốc nhất trong lịch sử Việt Nam vào thế kỷ 20. Việt Nam đã phá hủy cỗ máy chiến tranh khổng lồ để hôm nay được thở trong bầu không khí của hòa bình và một đời sống tâm linh cao quý”.

Nội dung bài tham luận bàn sâu về văn học chiến tranh, Fernando Rendón nhắc lại những nhà văn, nhà thơ thế giới hay viết về chiến tranh, thời kỳ bất ổn của đất nước, xã hội. Fernando Rendón kể tên nhà thơ Homero (La Mã), Đỗ Phủ (Trung Quốc), Mayakopsky (Nga), Garcia Lorca (Tây Ban Nha), Viachexlap (Nga). Fernando Rendón coi nhà thơ Hữu Thỉnh (khi đó là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) là “chiến sĩ lái xe tăng đã để lại những vần thơ sống động về cuộc chiến tranh chống Mỹ”.

Đồng thời, Fernando Rendón còn dẫn lại những vần thơ tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đi khắp đèo cao khắp núi cao/Ngờ đâu đường thẳng cặp gian lao/ Núi cao gặp hổ mà vô sự/ Đường phẳng gặp người bị tống giam”.  Nhà thơ Fernando Rendón đã nhìn thơ ca Việt Nam ở khía cạnh thơ ca đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ông đề cao nhà thơ, nhà văn như là những chiến sĩ góp công vào cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.

Trong bài “Tính khả thi của việc giao lưu thơ ca quốc tế giữa Đài Loan và Việt Nam”, nhà thơ Lee Kusei Shien (Đài Loan) viết: “Trong những năm tháng tuổi trẻ của tôi, nhân dân Việt Nam người không thể có điều kiện để xây dựng đất nước sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, nhưng người vẫn tiếp tục tranh đấu dưới ngọn lửa chiến tranh”.

Nhà thơ Lee Kusei Shien đã nhắc lại một số kỷ niệm khi ở Việt Nam lúc còn chiến tranh, và thấy điều không muốn thấy mà chiến tranh đem lại: “Khi tôi đến thăm khu chế xuất Biên Hòa, những khẩu pháo còn nằm trên đường nhìn rất rõ ngay bên đường”. Nhưng một thời gian sau khi trở lại đất nước Việt Nam thân yêu, nhà thơ Lee Kusei Shien đã có cái nhìn khác, tươi mới hơn: “Bốn mươi năm trôi qua, chỉ đến tháng 12 năm 2014, tôi mới có dịp đến thăm Vịnh Hạ Long trong chuyến đi 4 ngày cùng gia đình. Theo ấn tượng của tôi, Việt Nam đã xây dựng được một xã hội hòa bình và hạnh phúc, và kinh tế xã hội đang khởi sắc”.

Nhà thơ Lee Kusei Shien mong muốn làm gì đó cho văn học Việt Nam: “Trong những năm qua, tôi đã thành công trong việc dịch và xuất bản các tập thơ bao gồm “100 bài thơ từ Bangladesh”, “Tuyển thơ ca đương đại của Macedona”, “100 bài thơ Irac đương đại”, “Tuyển thơ vùng Caribe”, “Tuyển thơ Anbani”, “Tuyển thơ Argentina”, “Tuyển thơ Tunisia”. Tham gia vào Liên hoan thơ quốc tế lần thứ ba tại Vịnh Hạ Long, một ý tưởng mới nảy sinh trong tôi, ấy là làm ngay một “Tuyển thơ Việt Nam đương đại”. Nhưng tiếc thay, tôi không biết tiếng Việt, tôi hy vọng sẽ tìm kiếm khả năng dịch từ tiếng Anh”.

Một trong những nền văn học cổ nhất của nhân loại

Nhà thơ Laura Garavaglia (Italia), trong tham luận đã kể lại những ký ức thời còn trẻ, là sinh viên Đại học, Việt Nam đối với sinh viên, nhân dân thế hệ trẻ Italia, và với hầu hết thế hệ trẻ phương Tây, rất đặc biệt, một đất nước nơi mà hòa bình và quyền con người bị lãng quên vì các thế lực thù địch và xâm lược ngoại bang. Nhưng Laura Garavaglia đã ngạc nhiên khi phải thốt lên: “Nhưng ngày nay, tôi đã biết Việt Nam đang phát triển rất nhanh chóng, giàu có về lịch sử và phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp”.

Vadim Terekhin – Đồng Chủ tịch Hội các nhà văn Nga đánh giá văn học Việt Nam là một trong những nền văn học cổ nhất của nhân loại. Có một danh nhân văn hóa mà cả thế giới biết đến đại diện cho những danh nhân thông thái nhất, ấy là Nguyễn Trãi (thế kỷ 15), Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ 16), Nguyễn Du (thế kỷ 18), cũng như nhà thơ của dân tộc Nga Alexandre Puskin, họ đã trở thành nhà sáng lập ra chữ viết Việt Nam hiện đại. Trong bài tham luận, Vadim Terekhin đánh giá Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chiến lược, nhà chính trị, nhà triết học, nhà thơ thiên tài.

“Truyền thống hữu nghị giữa các nhà văn hai nước chúng ta luôn luôn duy trì và bền vững cho tới ngày hôm nay. Tôi rất vui mừng và tự hào nhớ lại chuyến viếng thăm Việt Nam của chúng tôi vào năm 2011 như một phần của đoàn nhà văn Nga trong ngày thơ ca thế giới và chuyến thăm đáp lại của đoàn nhà văn Việt Nam do nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam dẫn đầu đến vùng Kaluga của nước Nga”, Vadim Terekhin nhắc lại kỷ niệm chuyến thăm Việt Nam, cũng như kỷ niệm khi đoàn nhà văn Việt Nam sang nước Nga.

Phiulavanh Luangvanna (Lào), coi Việt Nam là khuôn mẫu quảng bá văn học giữa các dân tộc và nhân loại. Phiulavanh Luangvanna cũng nhắc lại thời gian khi ở Việt Nam: “5 năm từ 1971 đến 1975, tôi đã sống và làm việc tại phía Bắc Việt Nam và Hà Nội. Đây là giai đoạn đầu tiên tôi tìm đến sách tại các thư viện, hiệu sách và thuê sách. Có rất nhiều loại sách, mới có cũ có về văn học Việt Nam. Đặc biệt sách văn học dịch từ nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới rất nhiều. Đi dọc đường, tôi thấy người Việt Nam rất ham mê đọc sách ở các thành phố lớn. Họ đọc báo, tạp chí và sách. Và tôi đặc biệt ấn tượng bởi trong các lớp học học sinh lớn bé, thuộc lòng rất nhiều bài thơ”.

Phiulavanh Luangvanna tỏ ra ngạc nhiên khi thấy học sinh Việt Nam có thể nhớ rất nhiều tên các nhà văn mà họ quý mến: “Họ vẽ chân dung các nhà văn. Tên nhà văn trở thành tên đường, tên phố và tượng của họ được đặt trong các khuôn viên, công viên lớn. Nhiều thành phố mang tên các nhà văn. “Tôi đã đến các đền chùa lớn xây dựng cách đây hàng nghìn năm tại Việt Nam và tôi thấy tên các nhà văn khắc tại trung tâm Hà Nội. Và tôi hết sức khâm phục tinh thần kỳ diệu đó...”.

Trong thời gian ở Việt Nam, Phiulavanh Luangvanna đã đọc rất nhiều báo, tạp chí... Phiulavanh Luangvanna rất yêu văn học Việt Nam về tình cảm, tư tưởng, cái hay cái đẹp của văn phong. Phiulavanh Luangvanna cảm thất thật hạnh phúc được nghe thơ, nghe văn của các nhà thơ tiền bối như: Nguyễn Phú, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đức Thuận, Tô Hoài và nhiều nhà văn khác. Phiulavanh Luangvanna đánh giá cao giá trị thơ văn và bút pháp của của nhà văn, nhà thơ Việt Nam. “Và tôi có thể so sánh giá trị của thơ ca Việt Nam với các nền thơ ca thế giới như Trung Quốc, Nga và các nhà thơ lớn của châu Âu và phương Tây. Sau cùng, tôi hiểu được rằng Việt Nam có cả một kho tàng văn học đồ sộ”, Phiulavanh Luangvanna thán phục.

Gs.Ts Gunter Giesenfeld – Chủ tịch Hội Hữu nghị Đức Việt, cho rằng, ở Việt Nam, những tác phẩm thực sự lớn mới bắt đầu xuất hiện. Gunter Giesenfeld cảm thấy sau khi kết thúc chiến tranh và đến khi bắt đầu thời kỳ đổi mới đã mang lại cho nền văn học Việt Nam một thời đại mới. Gunter Giesenfeld dẫn chứng 3 tiểu thuyết tiểu biểu xuất hiện năm 1991 của ba nhà văn Việt Nam, đó là Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Bảo Ninh; đồng thời nhắc tên nhà văn tiêu biểu ở thể loại truyện ngắn là Nguyễn Huy Thiệp.

Gunter Giesenfeld coi Văn học đổi mới tại Việt Nam là đại diện sự khởi đầu thực sự của văn học sau chiến tranh ở Việt Nam, và từ đó đến nay đang trỗi dậy. Văn học Việt Nam đã trải qua sự phát triển phức tạp và rất đặc trưng.

Tương đồng với văn học Hàn Quốc

Trong bài tham luận, GS.TS Ahn Kyong Hwan (Đại học Chosun, Hàn Quốc) đã nói về sự giao thoa giữa văn học Việt Nam – Hàn Quốc: “Hàn Quốc và Việt Nam, về mặt khối văn hóa Nho giáo và kinh tế nông nghiệp truyền thống thì có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt trong quãng thời gian Bắc thuộc Trung Quốc, do ảnh hưởng của Trung Quốc nên văn học Hán và văn học dân tộc hầu như cùng chiếm vị trí như nhau thì Hàn Quốc và Việt Nam rất giống nhau. Sự giao lưu văn học với Việt Nam thì về mặt lịch sử lúc thời kỳ Triều Tiên (Chosun) đến nay vẫn còn ghi chép lại việc sứ thần hai nước gặp gỡ tại nơi lưu trú Yên Kinh (Trung Quốc), đã giao lưu bằng bút đàm với nhau.

Trong văn tập “Chi Phong Tập” của Lý Túy Quang, một sứ thần của triều đại Triều Tiên thời ấy có ghi chép lại là vào năm 1596 và năm 1597, trong khi đi sứ triều cống nhà Minh, đến Yên Kinh và đã cùng với Phùng Khắc Khoan (1528 – 1613) một trung thần vừa là một nhà ngoại giao nổi tiếng của nhà Lê (1428 – 1788) bút đàm với nhau. Và trong “Bắc Sử Thông Lục” sách lịch sử Việt Nam có ghi chép là một đại học giải của nhà Lê là Lê Quý Đôn vào năm 1760 – 1762 trong đi sứ sang Trung Quốc trở về thì có gặp sứ thần của Triều Tiên, hai bên đã làm thơ, trao đổi với nhau”.

GS.TS Ahn Kyong Hwan kể tên các tác phẩm của Việt Nam đã được dịch sang tiếng Hàn Quốc (tính đến năm 2018): Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ), Lĩnh Nam chích quái, Nếu anh còn được sống (Văn Lê), Những người Việt Nam (Vũ Sơn Thủy), Chinh phụ ngâm khúc, Thơ Mùa đông (Hữu Thỉnh), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Áo Trắng (Nguyễn Văn Bổng), Nhật ký Đặng Thùy Trâm (Đặng Thùy Trâm), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), Ca dao Việt Nam, Những năm tháng không thể nào quên (Võ Nguyên Giáp), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (Nguyễn Nhật Ánh), Dế mèn phiêu lưu ký (Tô Hoài), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần), Giữa ban ngày cũng có kẻ mơ, Bí ẩn của làn nước (Bảo Ninh), Ký sự những mảnh đời trong ngõ (Lê Minh Khuê), Bến đò xóm Miễu (Nguyễn Ngọc Tư)...

“Lịch sử giao lưu của dân tộc Việt Nam và dân tộc Hàn được bắt đầu từ thể kỷ 12, tính đến nay được gần 900 năm. Vì cùng thuộc nền văn hóa Nho giáo nên cả về mặt lịch sử cũng như văn hóa, Việt Nam là quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Hàn Quốc”, GS.TS Ahn Kyong Hwan nhận định.

GS.TS Ahn Kyong Hwan cũng không quên khi đưa ra quan điểm về sự phát triển văn học Việt Nam tại Hàn Quốc: “Có thể nói rằng văn học cổ của Việt Nam, các tác phẩm văn học chữ Hán chiếm tỷ lệ cao và tính đồng chất về văn hóa với Hàn Quốc cũng thuộc nền văn hóa Nho giáo nên tính tương đương của biên dịch rất cao. Do đó, khi dịch văn học cổ của Việt Nam, cần tìm kiếm các chuyên gia Hàn Quốc có hiểu biết về văn học Hán văn, rồi dịch chung với các chuyên gia về Việt Nam của Hàn Quốc thì sẽ đạt kết quả dịch rất tốt”.

Nhà văn Cho Yong Ho (Hàn Quốc) đã nói về chiến tranh và hòa bình trong văn học Hàn Quốc và Việt Nam. Cho Yong Ho điểm qua những tác phẩm đầu tiên trong văn học Hàn Quốc có đề cập đến Việt Nam, tiêu biểu có thể kể đến tác phẩm của Hwang Seok Yeong và Ahn Jeong Hyo. Hai tác giả này đã từng tham chiến tại Việt Nam. Tác phẩm “Chiến tranh trắng” đã đăng thành nhiều kỳ trên “Silcheon Munhak”, đến năm 1985 đã in thành sách với tên gọi “Chiến tranh và thánh phố”, cũng cùng năm đó, tác phẩm “Dưới bóng vũ khí” xuất bản thành sách. Mỗi tác phẩm đều nói về Việt Nam và cuộc chiến tranh Việt Nam từ góc nhìn của người Hàn Quốc, cùng ẩn chứa thông điệp về sự vô nghĩa của chiến tranh cũng như thông điệp về một khát vọng hòa bình.

Cho Yong Ho nhắc đến cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh được dịch sang tiếng Hàn Quốc từ năm 1999, đây là bản dịch lại qua tiếng Anh, lúc này không thu hút được độc giả. Năm 2012, “Nỗi buồn chiến tranh” được dịch lại bởi Ha Jae Hong, lúc đó là nghiên cứu sinh về văn học Việt Nam tại trường Đại học KHXH&NV thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, mới nhận được sự quan tâm và yêu thích của độc giả Hàn Quốc. Cho Yong Ho đánh giá “Nỗi buồn chiến tranh” là tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam được giới thiệu tại Hàn Quốc. Ngoài mảng văn học chiến tranh, gần đây những tác phẩm truyền thuyết, văn học thiếu nhi Việt Nam cũng được dần giới thiệu ở Hàn Quốc.

Nền thơ ca lớn của thế giới

Geetesh Sharma (Ấn Độ) – Chủ tịch Ủy ban đoàn kết Ấn Độ - Việt Nam đánh giá, văn học Việt Nam và Ấn Độ có chiều hướng như nhau. Trong những chuyến viếng thăm gần đây tới Việt Nam, Geetesh Sharma đã phát hiện ra hàng trăm đầu sách của các nhà văn nổi tiếng Ấn Độ đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, trong đó bao gồm khoảng 14 đầu sách của R.Tagore và trường ca sử thi Mahabharata... Geetesh Sharma cũng than rằng, việc giới thiệu văn học ở hai nước đều ít, mặc dù có nhiều điểm giống nhau.

Nhà văn Bakhyt Rustemov (Kazakstan) – Viện sĩ, đồng chủ tịch Ủy ban văn học Nghị viện Á Âu nói rằng, ở đất nước Kazakstan có dịch cuốn sách viết về chiến tranh của Đặng Thùy Trâm, “Việt Nam trong quá trình đổi mới” của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng – cuốn sách đã rất phổ cập tại Kazakstan. Kết thúc tham luận, Bakhyt Rustemov đọc bài thơ của nhà thơ Grigory Shishov viết về Việt Nam: “Chúng ta tự hào về người dân Việt Nam hôm nay/ Họ đã chiến thắng nhiều kẻ thù không cân sức/ Hồ Chí Minh, Fidel và Nelson Mandela/ Biểu tượng của hòa bình và tình yêu trên trái đất”.

Gerry Loose đến từ đất nước Scotland nói mình biết rất ít về Việt Nam về nhân dân và về thơ ca của Việt Nam Nhưng Gerry Loose lại chắc chắn Việt Nam có rất nhiều thơ ca, rất nhiều nhà thơ và rất nhiều những thứ xuất chúng, đó là tình yêu và tiếc nuối, hay đó là phong tục đích thực của Việt Nam.

Trong bài viết, Gerry Loose nhắc lại những câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ: “Đêm cuối bom nổ ở Veranda/ Nhưng tiếng chim vẫn ngọt ngào vào mỗi sáng/ Tôi nghe tiếng cây lao xao ngoài vườn/ Tìm được hai trái ổi mọng”. Gerry Loose nhắc đến Xuân Quỳnh khi dẫn thơ: “Không con đường nào, không núi nào có thể chia cắt chúng ta/ Trước mắt chúng ta bầu trời xanh, xanh mãi mãi”. Gerry Loose cũng dẫn lại những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Yêu em như yêu bầu trời vô tận/ Giọt sương mai, hạt bụi trong đêm/ Ngọn gió đầu tiên báo hiệu bão tháng tư sắp đến/ Sự ấm nóng của giọt mưa rơi xuống, nơi xa xôi đang vẫy gọi/ Em ở dâu nới ấy chính là nhà của anh”.

“Thơ ca xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng tôi có thể chỉ ra rằng trên thế giới có những nền thơ ca lớn như: Việt Nam, Scotland, Colombia, Nigeria, Guatemala, nơi xuất phát từ văn hóa, từ sự tham gia của công chúng với những ai cùng chia sẻ văn hóa. Chúng tôi không được coi là các nhà thơ nổi lên từ nền văn hóa của chúng ta. Chúng ta có thể bị khước từ, chúng ta có thể bị xua đuổi nhưng văn hóa của chúng ta có thể xác định chúng ta là ai, nhân dân hay nhà thơ. Vì vậy như ở Việt Nam, cuộc đấu tranh của nhân dân vì độc lập và tự do hạnh phúc qua nhiều thế kỷ đã gây tiếng vang về văn hóa nơi tôi đang sống ở phía bên kia của thế giới”, Gerry Loose nhận định.

Mong thành lập Viện văn học mang tên Nguyễn Du

Thomas Kane – Giám đốc Viện William Joiner (Hoa Kỳ), cho biết, Viện William Joiner có nhiều người bạn thân thiết ở Việt Nam, gắn bó với nhau suốt 30 năm qua. Trong đó có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ... Viện William Joiner có nhiệm vụ hàng đầu là nghiên cứu về hậu quả chiến tranh, ảnh hưởng về sức khỏe với cộng đồng, với cá nhân và xã hội bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Giữa Viện William Joiner và Hội Nhà văn Việt Nam có mối quan hệ từ những năm 1980. Hai bên đã có những chia sẻ về giá trị nhân văn chung của thơ ca, tổ chức các hội thảo quốc tế văn học. Thomas Kane đánh giá cao sức mạnh của thi ca.

Thomas Kane cũng cho biết, hơn 30 năm qua, có nhiều nhà văn, nhà thơ đã có nhiều cuộc gặp gỡ nhau thông qua các chương trình giữa Hội Nhà văn Việt Nam và Viện William Joiner. Hai bên đã thực hiện nhiều dự án về dịch thuật văn học, xuất bản và đối thoại. Các nhà thơ như Fred Marchant, Martha Collins... giúp đỡ dịch thuật rất nhiều tác phẩm cua các nhà thơ, nhà văn Việt Nam sang tiếng Anh.

Viện William Joiner bằng nhiều hình thức khác nhau tiếp tục ủng hộ hợp tác văn học, trao đổi văn hóa, dự án dịch thuật, xuất bản... với các bạn đồng nghiệp Việt Nam. “Chúng tôi rất mong  thành lập được Viện văn học mang tên các nhà thơ lớn ở Việt Nam, như Nguyễn Du và hoan nghênh mọi sáng kiến khả năng hợp tác giữa các đối tác Mỹ với các bạn đồng nghiệp Việt Nam, giúp đỡ về dịch thuật, xuất bản, quảng bá cái hay cái đẹp của thơ ca Mỹ, thơ ca Việt Nam và những sáng tác khác của thơ đương đại cũng như thơ cổ điển của Việt Nam”, Thomas Kane mong muốn.

Lý Thành Ân (Trung Quốc), trong bài tham luận “Quan niệm về thi ca chủ nghĩa tự nhiên”, không bàn về văn học nước nào, cũng như không nhắc nhớ đến văn học Việt Nam, mà chỉ nêu ra quan đểm về thi ca chủ nghĩa tự nhiên. Lý Thành Ân cho rằng, sáng tác cần phải bắt đầu từ những chuyến đi, mỗi khi đến một nơi nào đó, Lý Thành Ân đều viết một bài thơ, thậm chí nhiều bài thơ. Khi Lý Thành Ân ở giữa sông núi, thì thấy đạt được sự ninh tĩnh của tâm hồn, tìm được sự linh diệu của tự nhiên, công việc sáng tác như thế đẹp đẽ biết nhường nào.

Lý Thành Ân cũng cho rằng, con người có thể già đi, nhưng non sông thì không, mãi mãi tươi xanh. Dù hiện đại hóa có phá vỡ tinh thần cổ lão, dù sự tiến bộ của nền văn minh phải trả giá bằng sự phá hoại tự nhiên, sông núi mãi mãi sống trong trái tim chúng ta. Con người đang tự biến thành con người duy lợi, cuộc sống ngày càng bị công lợi hóa, nhà thơ ngày càng mất khả năng biểu đạt tự nhiên, đánh mất khả năng đối thoại với núi sông, đó là một thực tế tàn khốc.

Lý Thành Ân cũng nói thêm về mối liên kết giữa thiên nhiên và con người, qua đó cũng khái quát qua về đất nước Trung Quốc, tính tất yếu giữa sáng tạo văn học với tự nhiên: “Sông núi linh tính ứng chứng cho lịch trình tinh thần của nhân loại, về bản chất văn hóa Trung Quốc là văn hóa non nước tự nhiên, thơ ca Trung Quốc từ cổ đã bắt nguồn từ linh tính núi sông, quan hệ của chúng ta với sông núi thực sự là quan hệ qua lại giữa con người với tự nhiên, thông qua linh tính sông núi phản quan nỗi lo lắng nội tâm của con người, thông qua sự miêu tả của chủ nghĩa tự nhiên (naturalism) của thi ca để đạt đến sự thống nhất giữa con người và trời đất.

Thiên nhân hợp nhất là cảnh giới rất cao, thơ ca với tư cách là một thứ tôn giáo của văn hóa, nó nắn lại và tưới nhuần nền văn minh hiện đại, trong nền văn minh hiện đại đa nguyên giá trị, và nền văn minh hậu hiện đại đẻ ra không ít lệch lạc, thì lại càng thêm quan trọng. Thuộc thế hệ sinh sau năm 1980, sự mơ hồ và lựa chọn chỗ đứng sai lệch, có thể nghiêm trọng hơn thế hệ trước, sáng tác trong một thế giới hỗn độn càng cần phải có đôi mắt tinh tường, và trái tim trong sáng”.

Văn học Việt Nam cần sự vượt thoát

Qua các bài tham luận tại Hội nghị Quốc tế quảng bá văn học Việt Nam lần thứ IV và Liên hoan Thơ Quốc tế Lần thứ III (ngày 16 – 21 tháng 2 năm 2019) tại Việt Nam, các nhà văn, nhà thơ, chuyên gia văn học nước ngoài đã có những góc nhìn dù chủ quan hay khách quan, thì đó đều là những đánh giá thiết thực cho văn học Việt Nam. Văn học nước nhà nhận được một số nhận xét là nền văn học lớn, lâu đời, đồ sộ, nhưng đó là những nhận định chung chung.

Họ không bàn nhiều, không bàn chi tiết về nghệ thuật hay tư tưởng trong văn học Việt Nam, mà chỉ điểm qua những tên tuổi như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, những tên tuổi đã trở nên quá quen thuộc trong văn học Việt Nam, từ thời xa xưa. Về văn học Việt Nam đương đại, họ có nhắc qua một vài tên tuổi nhà thơ, nhưng chủ yếu viết về chiến tranh.

Còn ở thể loại văn xuôi, Bảo Ninh được nhắc nhiều hơn cả với “Nỗi buồn chiến tranh”, nhưng cũng là ở thể loại viết về chiến tranh. Các cây viết trẻ đang nổi danh hiện nay ở trong nước, không thấy nhắc đến. Có thể trong một bài tham luận ngắn ngủi, họ không có thời gian để viết sâu về văn học Việt Nam? Mấy năm trở lại đây, có một vài nhà văn, nhà thơ Việt Nam được nhận giải này, giải nọ của quốc tế, nhưng không biết do hữu ý, hay cố ý, mà việc nhận giải này cũng không được mấy chú ý. Các tác phẩm của họ cũng không vì thế mà được tìm đọc, tìm mua nhiều hơn, cũng không vì thế mà trở nên “hot” hơn.

Nguyễn Huy Thiệp mặc dù là cây bút xuất sắc ở thể loại truyện ngắn của Việt Nam, nhưng có vẻ không được mấy quan tâm trong các bài tham luận này. Có thể là đòi hỏi hơi quá khi muốn tìm hiểu về góc nhìn của nhà văn nước ngoài thông qua các bài tham luận ngắn tại hội nghị quảng bá văn học, liên hoan thơ. Nhưng dù sao, qua đây, chúng ta cũng có một cách nhìn khác về chính nền văn học của chúng ta, dù là chưa đầy đủ.

Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học, trong các bài viết, lẫn các trò chuyện ngoài đời cho rằng, việc văn học Việt Nam không được quảng bá rộng ra thế giới là do vấn đề dịch thuật? Có thể đây là một nguyên do khiến văn học Việt Nam chưa được sự công nhận rộng rãi của độc giả thế giới, hay là do chất lượng, hàm lượng tư duy của người tạo ra tác phẩm văn học?

Văn học Việt Nam hiện đang ở đâu trên bản đồ văn học thế giới, qua những tham luận này, có thể nắm bắt được phần nào vị trí văn học Việt Nam. Có lẽ, những người sáng tạo văn học Việt Nam hôm nay cần phải có sự vượt thoát chính mình, vượt thoát những cái mà người đi trước chưa làm được, để làm những điều phổ quát hơn, sâu rộng hơn, mang tính nhân loại thông qua văn phong, bản sắc, triết lý, tư tưởng của dân tộc mình.