Kỳ 57.
Từ năm 1945 đến 2007, cơ quan lập pháp và hành pháp của Việt Nam dân chủ cộng hoà và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
16-8-1945, Quốc dân Đại hội Tân Trào bầu ra Uỷ ban giải phóng (tiền thân của Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch .
27-8-1945, Uỷ Ban giải phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch .
1-1-1946, thành lập Chính phủ Liên hiệp lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch .
2-3-1946, Quốc hội khoá I bầu Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đến 1955, Phạm Văn Đồng giữ chức Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng ngoại giao .
Quốc hội khoá II (1960-1964) bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Trường Chinh giữ chức Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, Phạm Văn Đồng Thủ tướng Chính phủ.
Quốc hội khoá III (1964-1968), Chủ tịch nước Hồ Chí Minh, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng.
Quốc hội khoá IV (1968-1972), Chủ tịch nước Hồ Chí Minh. Tháng 9-1969, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng. Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng .
Quốc hội khoá V (1972-1976): Tôn Đức Thắng Chủ tịch nước, Trường Chinh Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng .
Quốc hội khoá VI (1976-1981) 492 đại biểu bầu Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng. 1980-1981 Nguyễn Hữu Thọ Quyền Chủ tịch nước, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng. Quốc hội khoá VII (1981-1987) 496 đại biểu bầu Chủ tịch Hội đồng nhà nước Trường Chinh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng
Quốc hội khoá VIII (1987-1992) 496 đại biểu, bầu Chủ tịch Hội đồng nhà nước Võ Chí Công, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, 1991 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt .
Quốc hội khoá IX (1992-1997) bầu Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt.
Quốc hội khoá X (1997-2002) 450 đại biểu bầu Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải .
Quốc hội khoá XI (2002-2007) 498 đại biểu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải.
Quốc hội khoá XII (2007-2012) 500 đại biểu, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng và 4 Phó Chủ tịch, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có 18 thành viên, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Quốc hội khoá XII có Hội đồng dân tộc 39 thành viên và 10 Uỷ ban: Uỷ ban Pháp luật 35 thành viên, Uỷ ban Tư pháp 34 thành viên, Uỷ ban Kinh tế 36 thành viên, Uỷ ban Tài chính và Ngân sách 35 thành viên, Uỷ ban Quốc phòng và An ninh 34 thành viên, Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng 39 thành viên, Uỷ ban các vấn đề xã hội 40 thành viên, Uỷ ban Khoa học công nghệ và Môi trường 37 thành viên, Uỷ ban Đối ngoại 30 thành viên, Đoàn Thư ký kỳ họp Quốc hội 13 thành viên .
Chính phủ khoá XII có 26 thành viên, gồm Thủ tướng, 5 Phó Thủ tướng và 22 Bộ trưởng (2 Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng, 18 Bộ và 4 cơ quan ngang Bộ), gồm các Bộ :Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch -Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông-Vận tải, Bộ xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Tuyên truyền, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hoá -Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Uỷ ban Dân tộc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Văn phòng Chính Phủ .
Hệ thống chính trị Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Mặt trận tổ quốc Việt Nam bao gồm các đoàn thể và tổ chức như Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và các tổ chức tôn giáo. Mặt trận, các tổ chức đoàn thể trong mặt trận đều có hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương. Hệ thống chính trị tạo nên những tổ chức đa dạng phong phú, những mối quan hệ chính trị đa chiều nhằm lôi cuốn tất cả mọi người, mọi công dân vào sinh hoạt chính trị và xã hội, bảo đảm cho quyền lực của Đảng, của chính quyền được thực thi rộng khắp. Nguyên tắc tối cao của Hệ thống chính trị là bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Để bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, một hệ thống bộ máy Đảng được tổ chức từ trung ương đến địa phương bao gồm 5 cấp. Cơ quan cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng 5 năm họp một lần. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là Tổng bí thư. Ban chấp hành Trung ương bầu ra Bộ chính trị, Ban Bí thư. Ban chấp hành Trung ương Đảng mà hạt nhân là Bộ chính trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc. Dưới Ban chấp hành Trung ương Đảng có các cơ quan chuyên môn giúp việc là các ban: Ban tổ chức Trung ương, Ban đối ngoại Trung ương, Ban tuyên giáo Trung ương, Ban dân vận Trung ương, Uỷ ban kiểm tra Trung ương. Đứng đầu các ban là các Trưởng ban và các Phó ban. Giúp việc còn có Văn phòng Trung ương Đảng. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã qua 10 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc. Hội ngghị thành lập Đảng 3-2-1930 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì có ý nghĩa như một Đại hội. Từ tháng 10-1930 đến năm 1931 đồng chí Trần Phú là Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Đại Hội lần thứ nhất của Đảng được tiến hành ở Ma cao (Trung Quốc) năm 1935. Từ đó cho 1936 đồng chí Lê Hồng Phong là Tổng bí thư. 1936-1938 Hà Huy Tập, 1938-1940 Nguyễn Văn Cừ thay nhau giữ chức Tổng bí thư của Đảng. Trong Hội nghị Trung ương năm 1940 đồng chí Trường Chinh giữ chức Quyền Tổng bí thư. Hội nghị Trung ương lần VIII tháng 5-1941 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư. Sau Đại hội II năm 1951, Lãnh tụ Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng, đồng Chí Trường Chinh giữ chức Tổng bí thư cho đến năm 1956. Từ năm 1956 đến 1957 Lãnh tụ Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng kiêm Quyền Tổng bí thư. Từ năm 1957 đến 1960, đồng chí Lê Duẩn quyền Tổng bí thư. Đại hội III năm 1960 bầu Lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Lê Duẩn giữ chức Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội IV năm 1976 và tiếp đó Đại hội V năm 1981, đồng chí Lê Duẩn là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội VI nhiệm kỳ 1986-1991, đồng chí Nguyễn Văn Linh là Tổng bí thư. Đại hội VII nhiệm kỳ 1991-1996, đồng chí Đỗ Mười là Tổng bí thư. Đại hội VIII từ năm 1996 đến cuối 1997 đồng chí Đỗ Mười là Tổng bí thư. Cuối 1997 đến trước đại hội IX 2001 đồng chí Lê Khả Phiêu là Tổng bí thư. Đại hội IX nhiệm kỳ 2001-2006 và Đại hội X nhiệm kỳ 2006-2011 đồng chí Nông Đức Mạnh là Tổng bí thư. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên. Cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội ở các cấp là Ban chấp hành Đảng bộ, Chi bộ (Cấp uỷ). Ở cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, Đại hội đại biểu Tỉnh đảng bộ (Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố) bầu ra Ban chấp hành Tỉnh đảng bộ (Ban chấp hành Đảng bộ thành phố gọi tắt là Thành uỷ), trong đó hạt nhân là Thường vụ Tỉnh uỷ (Thường vụ thành uỷ) do Bí thư Tỉnh uỷ (Bí thư thành uỷ đứng đầu). Giúp việc cho Ban chấp hành Tỉnh đảng bộ (Thành uỷ) có văn phòng do chánh, Phó văn phòng Tỉnh uỷ (Thành uỷ) đứng đầu.
(Còn nữa)
CVL